Thứ Hai, 6 tháng 2, 2023

Một ngày giữa thực và hư, dĩ vãng và hiện tại, quên và nhớ.

 Từ hôm qua, trong đầu tôi bị quên lãng, tôi cho là lạ kỳ và có những thứ cũng kỳ lạ đến với tôi. Bắt đầu từ đâu?

Có một anh cựu học sinh Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ, vài tháng trước, chính xác là ngày 20-11-2022, các cựu học sinh có họp mặt lấy danh nghĩa là Tri ân Thầy Cô nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam, tôi có tham dự do cô cựu học sinh cùng họ nhận tôi là bố mời dự ở nhà hang Đông Hồ đường Cao Thắng nối dài Q.10 Tp. HCM.

Trong buổi họp mặt có một số Thầy Cô giáo được mời tới dự, nhiều cựu học sinh tham dự, sau khi ra về tôi bỗng nhớ không có anh Tạ Trung Hiếu tham dự, khi về Mỹ hôm nào đó, tôi có gửi email hỏi Hiếu, Hiếu trả lời là hôm đó đi du lịch ở Hạ Long hay Nha Trang chi đó, tiếp theo đó trong tuần vừa qua, sau Tết Nguyên án Quý Mão, tôi lại nhớ thường Hiếu đi dự luôn đi với 2 em cựu học sinh khác, tôi tự cho là bộ ba, khi đi dự thì có cả 3, mà khi vắng thì cả 3 cùng vắng mặt, nên tôi muốn email hỏi Hiếu 2 em kia tên là chi, nhưng tôi không nhớ địa chỉ email của Hiếu, thường như vậy mở phần email ra, gõ vào khoản To: tên của người mình muốn gửi email, máy sẽ trưng ra nhiều địa chỉ email có tên Hiếu, nhưng tuyệt nhiên không có của Tạ Trung Hiếu mà tôi muốn tìm.

Tôi phải email nhờ một anh ở Sàigòn tìm dùm cho tôi địa chỉ email của Tạ Trung Hiếu, may mà anh nầy có và đã cho tôi địa chỉ email của Hiếu, tôi đ liên lạc được và biết tên 2 anh kia do Hiếu cho biết.

Trong khi tìm địa chỉ email, có lúc tôi thấy bài hát Người ở lại Charlie của Trần Thiện Thanh, tôi gõ tìm Charlie rồi trên máy đưa tôi đến youtube của Tung Tăng Khắp Miền với Đồi Sạc Ly người nằm lại sau 50 năm Mùa hè đỏ lửa 1972 nay ra sao. Xem xong tôi thấy buồn quá, chiến tranh chỉ trong mấy ngày mà cả Nam, Bắc có chừng 500 quân nhân đã bỏ mình vĩnh viễn tại đó, trong đó có Thiếu Tá Nguyễn Đình Bảo Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Dù và tôi nhớ tới nhà văn Phan Nhật Nam kể về anh chàng Thiếu Tá cố vấn Đỗ Phủ, tôi gõ tìm anh ta và đã thấy có Video Clip Trung Tá VNCH Nguyễn Đình Bảo người ở lại Charlie của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Người quay phim và thuyết trình rất rõ ràng và am tường về thời đó, đáng khen ngợi anh ta cũng như người đồng bào Dao đưa anh ta đi, họ đã đốt những nén hương tưởng nhớ cả binh sĩ miền Bắc và Nam.

Với Video Clip nêu trên, tôi lại đi tìm xem ông Đỗ Phủ (Duffy) ngày nay ra sao ? Tôi tìm thấy bài Tổng Thống Biden tặng huân chương cho 4 binh sĩ tham chiến tại Việt Nam, trong đó có cựu Thiếu Tá Duffy tại Nhà Trắng ngày 5-7-2022.

Với Trung Tá Nguyễn Đình Bảo với nhà văn Phan Nhật Nam, tôi nhớ đến Binh Chủng Nhảy Dù, có một em cựu học sinh của Trung Học Kỹ Thuật là Lê Quốc Nam, em thi đậu vào Trường Kỹ Thuật Phước Tuy, rồi chuyển về Nguyễn Trường Tộ do Thầy Nguyễn Anh Dõng có người bạn là Thiếu Tá An Ninh của Binh Chủng Nhảy Dù xin chuyển trường, tôi cố nhớ mãi 2 ngày, chiều tối hôm qua tự nhiên tên anh ta bật ra trong trí tôi. Đó là Thiếu Tá Trực, sau nầy anh sinh sống ở Virginia, Mỹ, nay không rõ ra sao, còn Lê Quốc Nam hình như đã mất rồi.

Về Thiếu tá Trực, tiếc rằng tôi không thể nhớ họ của anh ta, nhưng tôi khó quên những chi anh ta đối với tôi. Chúng ta nhớ rằng trước 1975, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn Dù đóng ở Vùng I, hình như ở Quảng Trị, Tư Lệnh là Chuẩn Tướng Lê Quang Lưng, thân phụ của em Lê Quốc Nam, thỉnh thoảng ông tướng về Sàigòn, anh Trực lại báo cho tôi biết là ông Tướng mời đi ăn, có khi ở nhà hang Đại La Thiên trong Chợ Lớn, có khi ở Đệ Nhứt Khách Sạn  Tân Sơn Nhất, nhưng vào tiệc anh Trực nói: “Xin lỗi vì ông Tướng bận không đến dự được, xin anh em cứ tự nhiên.”

Tôi không hiểu do đâu, trong máy vi tính tôi thấy có cái file PDF Hồi ký của Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng, nên tôi mở ra đọc vì nó chỉ có 7 trang. Tưởng nên đọc cho biết. Có một điều rất quan trọng mà Tướng Trưởng không viết ra, quyết chết mang theo.

Cũng trong thời gian nầy, tôi đọc những bài về Khe Sanh, về Đồi Charlie, tôi đọc  được bài Giữa thực và ảo: Thực tại núi rừng Khe Sanh và thế giới internet của Nguyễn Hữu Liêm đăng trên Trang Mạng báo Saigòn Nhỏ ngày 4-2-2023, bài viết đáng đọc, đáng suy gẫm giữa thực và ảo, giữa hiện tại và dĩ vãng như tôi đang liên lạc với Tạ Trung Hiếu, đọc Đồi Charlie với cố Trung Tá Trần Đình Bảo tử trận tại đây ngày 12-4-1972, với Thiếu Tá hồi hưu John J. Duffy được trao huân chương cao quý nhất nước Mỹ ngày 5-7-2022. Mọi chuyện đan xen vào nhau.

Tạ Trung Hiếu, Tô Vĩnh Khoa, Trương Anh Dũng

866406022023





Thứ Ba, 31 tháng 1, 2023

Bùi Thế Mỹ

Lan Đình - Bùi Thế Mỹ (1904-1943)

Bùi Thế Mỹ thuộc dòng dõi tộc Bùi, một dòng tộc nổi tiếng của huyện Duy Xuyên. Bùi Thế Mỹ sinh năm 1904, con trai trưởng của cụ Bùi Thiện quê gốc làng Vĩnh Trinh nhưng tổ tiên di cư lên sống ở làng Phú Nhuận, xã Đông An (nay là xã Duy Tân, Duy Xuyên). Bùi Thế Mỹ lại được sinh ra và lớn ở quê ngoại, làng Bảo An, phủ Điện Bàn (nay là xã Điện Trung, Điện Bàn). Mẹ ông là bà Phan Thị Duyên, con gái tộc Phan làng Bảo An, một dòng tộc khoa bảng hàng đầu của Quảng Nam. Bà là em gái của nhà cách mạng Phan Thành Tài (1878 - 1916).

Được hưởng truyền thống của hai gia tộc lừng lẫy, từ nhỏ Bùi Thế Mỹ đã tỏ ra rất thông minh, đĩnh ngộ. Sau khi học xong chương trình trung học với tấm bằng Thành chung, năm 1923, Bùi Thế Mỹ vào Sài Gòn dạy học và làm báo, viết văn.

Ông từng thay Trần Huy Liệu chủ trương tờ Đông Pháp thời báo, rồi sau đó làm chủ bút các tờ Trung lập, Tân thế kỷ, Thần chung và chủ nhiệm tờ Dân báo, tờ báo ông theo đuổi đến cuối đời. Ông ký các bút danh Hy Tô, Thông Reo và Lan Đình.

Trong thời gian làm chủ bút tờ Đông Pháp thời báo và tờ Trung lập, Bùi Thế Mỹ đã cùng Phan Khôi xây dựng “Phụ trang văn chương”. Mục này bước đầu giới thiệu khái quát văn học sử Việt Nam, các lý luận văn nghệ, giới thiệu văn chương nước ngoài, vấn đề đạo văn, vấn đề “nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh”… Mục Phụ trang văn chương được nhiệt liệt hoan nghênh tạo nên một dấu ấn về mặt văn học của báo chí!

Bùi Thế Mỹ là nhà báo yêu nước. Những tờ báo mà ông cộng tác hoặc đứng ra thành lập là những tờ báo tiến bộ, có uy tín ở Sài Gòn thời bấy giờ luôn thể hiện quan điểm yêu nước, đứng về phía nhân dân.

Mặc dầu là nhà báo nổi tiếng, cuối đời Bùi Thế Mỹ vẫn cảm thấy chưa hài lòng vì ông cho rằng mình là nhà báo “tay ngang” nên chưa có được những tác phẩm báo chí để đời!

Người ta nói rằng, sự nghiệp văn chương báo chí của ông đạt được như vậy, có phần đóng góp công sức của người bạn đời của ông là nữ sĩ Phương Lan, tục danh là Nguyễn Thị Lánh, tục gọi cô giáo Lánh, người cùng quê với danh nhân Tôn Đức Thắng (Cù lao ông Hổ, Long Xuyên, An Giang).

Bùi Thế Mỹ mất ngày 27.3.1943 tại Sài Gòn, hưởng dương 39 tuổi.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã có câu đối viếng ông:

Quốc văn báo giới nhị thập tải vu kim, đương đắc bằng trù thôi lão kiện;

Nguyệt đán châu bình Ngũ Hành Sơn du tích, khẳng giao bút thiệp khuất nhân tài.

Phú Bình dịch ý:

(Trong) Đội ngũ những người hoạt động báo giới quốc văn hai mươi năm nay, (ai cũng đồng lòng) ca ngợi anh (Bùi Thế Mỹ) là tay già dặn;

(Đọc) những bài bình luận - phê bình sắc sảo của người xứ Quảng này để lại, (ai cũng) thừa nhận làng báo từ nay đã vắng một nhân tài.

Tác phẩm:

- Trà hoa vũ (dịch từ La Dame aux camélias của Alexandre Dumas fils (1824-1895).
- Vai tuồng của nhà gõ đầu trẻ. (Khảo luận)

Trong Những văn nhân chính khách một thời, Thiếu Sơn đã nghiền ngẫm về bài học của mình rút ra từ cuộc đời của gần năm mươi danh nhân như Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn An Ninh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh..., trong đó có Bài học Bùi Thế Mỹ: “Tôi không nhớ anh chết năm nào. Nếu tôi không lầm thì anh tuổi Thìn và chết hồi anh mới 39 tuổi. Anh đau cả tháng rồi mới chết. Tôi thường ra thăm anh ở tư gia. Mới đầu anh còn viết được. Sau anh không viết được nữa. Tất cả mọi việc đều một tay vợ anh quán xuyến. Người anh đã nhỏ con, ốm yếu mà càng ngày càng ốm, càng xanh. Mỗi lần tôi ra thăm anh về là mỗi lần ngậm ngùi chán nản”.

Ông Thái Văn Kiểm trong Dòng thời gian đã viết: “Bùi Thế Mỹ là một ký giả cự phách của làng báo Nam Việt trong thời kỳ tiền chiến, một kiện tướng thuộc thế hệ Nguyễn Phan Long, Diệp Văn Kỳ, Đào Trinh Nhứt, Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Bá... những chiến sĩ có lý tưởng quốc gia, muốn dùng ngòi bút để phổ biến tư tưởng tự do, dân chủ, trình bày lập trường của dân tộc đang bị đô hộ, muốn đập tan xiềng xích, vươn mình lên sống mạnh theo truyền thống của một dân tộc từng có lịch sử vẻ vang”.

Vinh danh Bùi Thế Mỹ, hiện nay trên cả nước, nhiều nơi có đường phố mang tên ông.

Bùi Thế Mỹ là nhà báo tài danh và yêu nước, thể hiện ở những tờ báo mà ông cộng tác hoặc điều hành. Đó là những tờ báo lớn, có uy tín, có số bạn đọc đông đảo và có nghiệp vụ cao và cũng là những tờ báo “đối lập”, luôn đứng trên lập trường quốc gia dân tộc, đứng về phía đa số quần chúng, bảo vệ cho quyền lợi của người nghèo, người lao động. Đó là các báo: Trung lập, Thần chung, Tân thế kỷ, Đông Pháp thời báo và Dân báo. Đọc những nhận xét về các tờ báo mà ông điều hành hay cộng tác là cách gián tiếp nghe một số đánh giá về ông:

Theo ông Huỳnh Văn Tòng, Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945. “Trung lập báo là tờ báo phát hành 15.000 tờ một ngày, đứng đầu các nhật báo ở Sài Gòn lúc bấy giờ. Tờ báo có cách trình bày đẹp trội hơn các đồng nghiệp khác”.

Tài liệu tham khảo:

- Bùi Thế Mỹ Web: https://baoquangnam.vn/nhan-vat/bui-the-my-nha-bao-tien-phong-nguoi-quang-113542.html

866432012023

 

Thứ Tư, 25 tháng 1, 2023

Manh Manh

 
Manh Manh - Nguyễn Thị Kiêm (1914-2005)

Manh Manh hay Nguyễn Thị Manh Manh (chữ Hán阮氏萌萌) là một nữ sĩ Việt Nam thời tiền chiến. Theo tài liệu thì bà là người phụ nữ đầu tiên đã đăng thơ, viết bài, đăng đàn diễn thuyết hô hào cho phong trào thơ mới tại Việt Nam.

Nữ sĩ tên thật là Nguyễn Thị Kiêm (阮氏兼), sinh ngày 3 tháng 1 năm 1914 tại Sài Gòn, nhưng quê quán của bà ở tỉnh Gò Công (nay thuộc Tiền Giang). Bà là con gái thứ của Tri huyện Nguyễn Đình Trị, tục danh Huyện Trị, cũng là một cây bút trong làng báo lúc bấy giờ. Ông Trị từng là chủ huyện Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, nghị viên hội đồng thành phố chung "sổ" (liên danh tranh cử) với giáo sư Nguyễn Văn Bá, chủ bút báo Công Luận thời Diệp Văn Kỳ, Thần Chung. Ông Trị cũng là "bầu" của đội bóng đá Ngôi Sao Xanh và sau đó đội Ngôi Sao Gia Định lừng lẫy một thời.

Thuở nhỏ học ở Gò Công, sau khi học hết bậc tiểu học, bà được theo học ở trường Collèges des jeunes filles indigènes: Trung học Thiếu nữ Bản xứ Sau đổi tên là Collèges des Jeunes filles Annamites de Saigon: Nữ Trung học An Nam Sàigòn. Thời đó nữ sinh trường nầy phải mặc đồng phục áo dài màu tím, nên người ta gọi là Trường Áo Tím, đến năm 1949 đổi tên thành Collège Gia Long, rồi Lycée Gia Long, sau 1975 đổi tên thành Trung học Nguyễn Thị Minh Khai.

Khoảng năm 1931-1932, sau khi tốt nghiệp bằng Thành chung ban Sư phạm (Cour de pedagorie hay Section Normal), bà được giữ lại trường để dạy học, nên gia nhập làng báo Sài Gòn. Bà thường xuyên cộng tác với tờ Phụ nữ tân văn ở Sàigòn do ông Nguyễn Đức Nhuận (1900-1968) làm Chủ nhiệm vợ ông bà Cao Thị Khanh (1900-1962) làm Chủ bút, và lần lượt viết cho các tờ báo khác như: Công luận, Nữ lưu...

Ban đầu bà chỉ là phóng viên thường, viết các mục nhỏ với bút hiệu YM, Nguyễn Văn MYM. Sau khi Phan Khôi đăng bài thơ Tình già (Phụ Nữ Tân Văn số 122 ngày 10-3-1932) thì tên tuổi bà sáng lên qua bút danh Nguyễn Thị Manh Manh hoặc tên thật khi ủng hộ Thơ mới và cổ vũ cho nữ quyền. Sau đó, nữ sĩ còn đăng đàn diễn thuyết cổ vũ cho phong trào này. GS.Phan Cự Đệ kể:


..."Cuộc tấn công của "thơ mới" vào "thơ cũ" ngày càng quyết liệt. Tối ngày 26 tháng 7 năm 1933, Nguyễn Thị Kiêm (tức nữ sĩ Manh Manh, khi ấy mới 19 tuổi) diễn thuyết tại Hội Khuyến học Sài Gòn về "Lối thơ mới". Hội này thành lập đã 25 năm mới có một buổi phụ nữ lên diễn đàn, mà cũng là buổi đông thính giả nhất. Hơn hai năm sau (tháng 11 năm 1935), Nguyễn Thị Kiêm lại diễn thuyết một lần nữa tại Hội Khuyến học Sài Gòn. Lần này, bà và ông Nguyễn Văn Hạnh cùng diễn thuyết tranh luận về "thơ mới"...

 

Không chỉ bảo vệ thơ mới, nữ sĩ Manh Manh còn là một chiến sĩ đòi giải phóng phụ nữ, bình quyền với nam giới. Đáng tiếc, cuối năm 1934, tờ Phụ Nữ Tân Văn đình bản, bà Kiêm mất chỗ dựa, phong trào cổ vũ Thơ mới và đấu tranh cho nữ quyền của bà bị xẹp xuống. Và bà trở thành một nhà báo bình thường cộng tác với một số báo đương thời. Sở trường của bà là phỏng vấn. Tuy vậy, bà cũng viết nhiều bài phê bình, ghi chép... TS. Phan Văn Hoàng viết: 


"Chị đả kích các tập tục hủ bại như trọng nam khinh nữ, tảo hôn, đa thê..., bênh vực những quyền lợi chính đáng của nữ giới. Trong năm 1934, chị đã đi tới 4 thành phố (Huế, Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng) để diễn thuyết các đề tài: "Dư luận nam giới đối với phụ nữ tiên tiến", "Một ngày của một người đàn bà tiên tiến", "Có nên tự do kết hôn chăng?", "Nên bỏ chế độ đa thê không"? Ý tưởng của chị trong các buổi diễn thuyết đó đã tạo ra trong xã hội hai luồng dư luận trái chiều (tán thành và phản đối) phản ảnh qua báo chí trong Nam ngoài Bắc..."
 

Năm 1936, nữ sĩ Manh Manh còn tích cực tham gia phong trào Đông Dương đại hội. Tuy mới 22 tuổi, nhưng nữ sĩ là một trong hai phụ nữ được cử vào Ủy ban lâm thời tổ chức Đông Dương đại hội tại Sài Gòn, bên cạnh các nhân vật nổi tiếng thời đó như Nguyễn An NinhTrịnh Đình ThảoNguyễn Văn TạoNguyễn Văn NguyễnTạ Thu ThâuPhan Văn Hùm... 

Ngày mồng 1 tháng 10 năm Bính Tý (tức 11 tháng 11 năm 1937), nữ sĩ thành hôn với ông Trương Văn Em, người Hà Tiên, một nhà giáo dạy Việt văn ở trường Trung học Huỳnh Khương Ninh, Sài Gòn, đồng thời cũng là một nhà báo với bút hiệu Lư Khê. Nhưng họ sống với nhau không lâu. Sau khi đứa con đầu lòng mất và bà không thể có con được nữa, hai người thỏa thuận chia tay.  

Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt (em út Lư Khê, gọi nữ sĩ Manh Manh là chị dâu) kể:

..."Chị (Manh Manh) cư xử với nhà chồng rất tốt, được bên chồng yêu quý. Chị là thứ nữ của ông Huyện Trị, còn anh Lư Khê là con nhà nghèo ở Rạch Vược (Hà Tiên)...Song, chị không hợm mình, lúc nào chị cũng quý trọng người nghèo rất thật tình, không màu mè, không phân biệt giai cấp. Chị thường viết báo hoặc diễn thuyết bênh vực dân nghèo...Khi sinh bé Mi Nu, chị Kiêm bị sự cố không may, mất khả năng sinh sản. Năm sau, bé Mi Nu (bị liệt từ lúc mới sinh) qua đời...chị Kiêm vô cùng buồn, chị thỏa thuận cho anh có người khác...Đầu năm 1945, trước ngày Nhật đảo chính Pháp, anh Lư Khê có người vợ thứ hai... 

Theo TS. Phan Văn Hoàng kể chi tiết:  

"Đầu năm 1950, chị sang Pháp định cư. Bặt vô âm tín. Nhưng ở trong nước, tên tuổi và sự nghiệp của chị không bị lãng quên. Tháng 1 năm 1999, hai nhà nghiên cứu Thiện Mộc Lan và Thanh Việt Thanh cho xuất bản cuốn "Nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh" (Nhà xuất bản Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh, 1999). Nhờ đọc cuốn sách ấy trong một chuyến về thăm quê hương, bà Bourbon Thi Hương (một Việt kiều ở Paris, bạn của chị) giúp nối lại liên lạc với chị. Nhận được cuốn sách có lời đề tặng của hai tác giả, chị xúc động nói: "Không ngờ nửa thế kỷ rồi mà những người bạn văn ở trong nước còn nhớ và viết về tôi". Lúc đó, chị đã 85 tuổi, đang sống trong nhà dưỡng lão ở Paris. Hơn 6 năm sau, chị trút hơi thở cuối cùng sau hơn nửa thế kỷ sống xa quê hương"  

Nữ sĩ Manh Manh qua đời trong một nhà dưỡng lão ở Paris vào ngày 26 tháng 1 năm 2005, thọ 91 tuổi. 

Tác phm: 

Nữ sĩ Manh Manh làm thơ rất ít, và chưa in tập thơ nào. 


Viếng phòng vắng, đăng báo Phụ nữ tân văn số Xuân, ra ngày 19 tháng 1 năm 1933.

Canh Tàn, trích trong bài diễn thuyết về Thơ mới tại Hội Khuyến học Sài Gòn ngày 26 tháng 7 năm 1933.

Hai cô thiếu nữ, đăng báo Phụ nữ tân văn1933.

Bức thư gửi cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới, đăng báo Phụ nữ tân văn số 228, ra ngày 14 tháng 12 năm 1933.

Vấn đề Nữ lưu và Văn học. Đây là bài diễn thuyết, sau đăng báo Phụ nữ tân văn số 131, ra ngày 26 tháng 5 năm 1932. 

Giới thiệu một bài thơ mới của nữ sĩ

Trong cuộc diễn thuyết vào đêm 26 tháng 7 năm 1933 tại Hội Khuyến học Sài Gòn, nữ sĩ Manh Manh có "trưng ra làm điển hình" một bài thơ mới của mình như sau:

Canh tàn

Em ơi, nghe lóng nghe
Gió đêm thoáng qua cửa...
Lụn tàn một góc lửa,
Lạnh ngắt chốn buồng the.
Gió đêm thoáng qua cửa...
Não dạ dế tỉ te
Lạnh ngắt chốn buồng the...
Em ơi, khêu chút lửa.
Não dạ dế tỉ te
Gió ru! "...thiết chi nữa..."
Em ơi, khêu chút lửa
Rồi lại ngồi đây nghe.
Gió ru: "...thiết chi nữa..."
Sụt sùi mấy cành tre
Em ngồi đây có nghe
Tơ lòng chị đứt nữa.


Hình ảnh Manh Manh - Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết tại Hội Khuyến Học Sàigòn ngày 26-7-1933

Sự cổ vũ nồng nhiệt của nữ sĩ Manh Manh về "thơ mới", đã được Hoài Thanh-Hoài Chân kể lại trong cuốn Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm 1941), như sau:

..."Từ hai tháng trước, hôm 26 juillet (tháng 7) 1933, một nữ sĩ có tài và có gan, cô Nguyễn Thị Kiêm, đã lên diễn đàn Hội Khuyến học Sài Gòn thành lập đến bấy giờ đã 25 năm. Lần thứ nhất một bạn gái lên diễn đàn và cũng là lần thứ nhất có một cuộc diễn thuyết được đông người nghe như thế"...

Ghi nhận công lao của nữ sĩ, trong Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển thượng) có đoạn:

..."Trong hồi dậy men của nền thơ mới, nữ sĩ Manh Manh là người đàn bà đầu tiên đáp ứng tiếng gọi đàn của nhà tiên phong Phan Khôi...Chúng ta ngày nay nhìn lại việc qua, giữa cái cũ kỹ từ nghìn đời sừng sững như cổ thành kiên cố; thế mà, bỗng chốc, một Phan Khôi táo bạo nổ phát súng cách mạng thi ca; người nữ chiến sĩ tiền phong anh dũng và hăng say hoạt động để bảo vệ và củng cố nền tảng thơ mới bén rễ và sống mạnh, ta phải kể Nguyễn Thị Manh Manh, một tay đã đóng góp công lao không nhỏ cho nền văn học đất nước .

Tài liệu tham khảo:

- Manh Manh Web: vi.wikipedia

866424012023





 

Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2022

Nhớ chuyện xa xưa

Mấy hôm nay, sau ngày sinh nhật thứ 81 của tôi, đặc biệt năm nay lại trùng với ngày sinh của Thái tử Tất Đạt Đa, tôi được bạn bè và nhiều cựu học sinh gửi đến chúc mừng, gợi cho tôi nhớ đến những chuyện xa xưa đã trên nửa thế kỷ.

Trước tiên tôi nhớ đến những ngày ở trong quân trường Thủ Đức rơi nhằm dịp Tết Mậu Thân, bị cấm trại liên miên nên không thể đi phép, có lúc nằm luôn ở trạm gác 13, nhìn ra xa lộ Sàigòn – Biên Hòa thấy xe chạy nhớ nhà lòng buồn khôn tả. Có hôm ngoài xa lộ đụng nhau súng nổ, đạn bay vèo vèo, tưởng là VC phục kích xe Mỹ, sau nghe lại xe của Đại úy Mẫn chồng của Thanh Nga đụng độ với toán tuần tiểu.

Sau khi ra Trường lại tiếp tục học ở Trường Quân Cụ tại Gò Vấp, gần ngã Năm chuồng chó, vì nơi đó là ngã năm lại có đơn vị quân khuyển, trên con đường nầy đầu kia là ngã ba Chú Ía, ở giữa là bệnh viện Cộng Hòa, tuy là con đường ở ngoại ô Sàigòn, nhưng nổi danh trên toàn quốc.

Sau khi ra Trường Quân Cụ, tôi lại chọn vùng IV, trong khi có 1 chỗ là một đơn vị Đại Đội Quân Cụ, đồn trú sát ngã năm, bên cạnh chuồng chó. Chọn xong bạn bè ai cũng tiếc cho tôi đã bỏ mất một chỗ tốt, nếu chọn Đại Đội đó tôi được ở gần nhà với vợ con ngay tại thủ đô Sàigòn, ngược lại tôi đã chọn vùng IV là Miền Tây.

Thế rồi tôi được phân bổ về Đại Đội 21 Quân Cụ, tức là đại đội yểm trợ cho Sư Đoàn 21 Bộ Binh có bản doanh đặt tại Bạc Liêu, còn Đại Đội đồn trú tại thị xã Sóc Trăng gần rạp chiếu bóng Hòa An, cạnh chùa Năm Ông, tôi đến nhằm lúc đơn vị di chuyển đến Trung tâm huấn luyện nghĩa quân trên đường đi Bãi Xào, chưa đến Đài Phát Thanh Ba Xuyên, cách không xa chùa Dơi theo đường chim bay.

Chùa Dơi ở Thị xã Sóc Trăng

Tôi đồn trú nơi đơn vị nầy là Tiểu Đoàn 21 Tiếp Vận, trong đó có Đại Đội Bảo Toàn, gồm có Đại Đội Quân Cụ và các đơn vị Quân Nhu, Quân Vận, Truyền Tin. Tôi ở đây chưa được 1 tháng thì được phân bổ làm Trung Đội Trưởng Trung Đội Sửa Chữa, đồn trú cạnh Trung Đoàn 32 của Sư Doàn 21 để yểm trợ đơn vị nầy.

Mặc dù là khoảng hè năm 1969, nhưng tình hình vẫn chưa được an ninh, khi tôi đi từ Cần Thơ đến Sóc Trăng phải chờ và đi theo một đoàn có hộ tống (convoy) và từ Sóc Trăng đi Cà Mau, tôi cũng phải tháp tùng theo đoàn hộ tống.

Đến Cà Mau đơn vị tôi có doanh trại ở trên sân quần vợt của Ty Tiểu Học, ở trước mặt Ty, cách nhau một con đường, bên cạnh đơn vị tôi là một đơn vị của Mỹ, thỉnh thoảng có người Việt trộng tuổi đi vào đó, lính của đơn vị tôi cho tôi biết đó là những người dân “bán tin” cho Mỹ. Cạnh Ty Tiểu Học là bản doanh của Trung Đoàn 32, tôi được biết Trung đoàn trưởng là người cùng quê với tôi, anh Trung Đội Trưởng, người tiền nhiệm có đưa tôi sang thăm xã giao Trung Tá Bông, gặp ông Bông tôi không hề cho ông ta biết chúng tôi là người cùng quê.

Không xa nơi tôi đồn trú là Ty Cảnh Sát, anh Trung Úy trưởng phòng hành chánh là bạn của tôi lúc ở Sàigòn, anh ta đã về đây có vợ con, đôi lần tôi có đến thăm anh ta tại trại gia binh ở trong ty, nhưng tôi trông thấy cảnh những người bị bắt, giam ở Ty leo nheo, lóc nhóc với đám con nít, nên tôi chỉ đến thăm anh ta vài lần mà thôi, đôi khi anh ta lấy xe cảnh sát chở tôi đi ăn kem hay uống cà phê.

Ở tại chợ Cà Mau cách đơn vị tôi có 2 ngã tư cùng một con đường, có một cửa hàng điểm tâm của người Hoa, là tiệm nước Đông Viên nơi đây luôn nhộn nhịp thực khách ăn sáng với hủ tiếu, mì, bánh bao, xíu mại, dò chéo quãi … Sáng nào chúng tôi cũng kéo nhau ra đây uống cà phê. Đặc biệt ở đây có một cậu “phổ ky”, tuổi chừng 15, 16 thích kết thân với mấy anh lính của đơn vị tôi, cứ mỗi Thứ Ba khoảng 10 giờ sáng, anh phổ ky nầy mang vào trại chúng tôi một thau “xíu quách”, kèm theo một chai Whicky-Cô, là rượu đế pha với Coca Cola. Tôi không hiểu cậu phổ ky nầy được chi mà chìu lính của đơn vị tôi như vậy ? Tôi chỉ biết những người làm nơi quán đó, mỗi người đều được một phần xíu quách trong ngày nhất định của tuần lễ.

Có một chị ngoài 50, hút thuốc Ruby, nên các anh lính của đơn vị gọi chị ấy là bà Hai Ruby, thỉnh thoảng vào buổi tối ghé vào đơn vị đánh bài với mấy anh lính, đến khuya không còn xe Lam về, chị phải ngủ nhờ, nằm chung với anh Trung đội phó trong chiếc xe sửa chữa.

Tôi ở đây được 1 tháng thì đơn vị được cải tổ, một anh xung phong nhận thay tôi, để tôi trở về đơn vị tại Sóc Trăng, giữ chức Trung Đội Trưởng Hậu Cứ, ngày tôi trở về đơn vị cũng phải chờ mấy hôm mới có đoàn hộ tống để lên đường.

Lúc ở Cà Mau đơn vị tôi không có xe jeep, nên chúng tôi mượn xe của Trung Đoàn 32, tôi ra phi trường Cà Mau tập lái mấy hôm cho nhuần nhuyển. Khi về lại Sóc Trăng anh em Quân Vận làm cho tôi cái bằng lái xe, mặc dù Sĩ Quan không được phép lái xe, vì có tài xế lái, nhưng tôi được cấp 1 chiếc A2 hay là M151 và anh tài xế Linh.

Về đây có anh Nô chuyên viên kỹ thuật của rạp chiếu bóng Hòa An, thích đi chơi và đi uống bia với chúng tôi. Tôi nhớ có một buổi tối đã gần 9 giờ, phố xá vắng chúng tôi buồn, nên rủ nhau vào hồ nước ngọt bắt “Bò lạc”, trong nầy có một Tinh Xá, thỉnh thoảng vẫn có người đi hóng mát, tối đó chẳng có bóng ma nào, lúc chúng tôi quay xe ra về, dọc đường gặp con rùa bằng cái tô, anh em bảo nhau thôi thì bắt rùa về nấu cháo ăn, tôi nhớ thỉnh thoảng anh em có đãi chúng tôi món rùa nấu thuốc bắc, nhưng chưa hề nếm được rùa nấu cháo. Chúng tôi bắt con rùa bỏ lên xe, chạy về nhà bên vợ của Nô ở gần Bãi Sào để nấu cháo, ăn đêm.

Rạp chiếu bóng Hòa An ngày xưa

Nấu cháo xong, Nô dọn chén, đủa lên bàn ăn rồi bưng nồi cháo rùa đặt giữa bàn, giọng bí mật:

- Mời quý bạn cùng thưởng thức món để đời của chúng ta.

 Đã gần khuya, bụng cũng đói, cảm thấy mùi cháo lại đói hơn.

Ai cũng bưng chén cháo lên húp, nhưng cháo là cháo trắng không mùi vị mà thịt rùa là thịt rùa, hai thứ đó không san sẻ nhau chút gì, cho nên người ta thường nói “Húp cháo rùa”, lúc đó chúng tôi mới hiểu câu tục ngữ “Húp cháo rùa”. Theo tôi rất nhiều người nghe nói: “Húp cháo rùa”, nhưng đêm đó tôi mới được thực tế.

Tôi ở đây được 2 tháng thì có giấy biệt phái về dạy học lại. Lâu rồi tôi ít khi gặp lại những bạn đồng ngũ. Một lần cách nay chừng 10, 15 năm một hôm đi Viếng chùa Sư nữ Linh Phong Cổ Tự ở Đà Lạt, may mắn được gặp lại anh Bửu Cầu, đồng đội của tôi ở Trường Bộ Binh Thủ Đức, anh Bửu Cầu ở đó vì Sư cô Trụ Trì là người Hoàng tộc cùng họ hàng với anh. Gần đây, về Việt Nam gặp lại anh Trần Minh Nhật cũng là bạn cùng khóa ở Trường Bộ Binh và Quân Cụ, Nhật nay ở West Virginia, thỉnh thoảng gọi điện hỏi thăm nhau và hẹn gặp lại ở Việt Nam.

Những ngày tôi ở Cà Mau, Sóc Trăng nhớ lại như mới đó, vậy mà đã trên nửa thế kỷ trôi qua, với biết bao đắng cay của những ngày tù tội, lại hiểu thêm: ”Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Cứ mỗi lần nhớ đến câu nầy lòng buồn ứa nước mắt.

866403062022






Thứ Ba, 19 tháng 4, 2022

Một chút tâm sự

Từ lâu tôi lo sợ mình bị Alzheimer nên sử dụng máy vi tính làm Trang nhà, kết nối điện thư với bạn bè và làm Vlog, chỉ nhằm mục đích cho bộ óc làm việc. Trang nhà tôi làm từ nhng năm 1997, 1998. Còn Vlog tôi làm từ 2011. Bước đầu tôi làm chỉ để học hỏi mà thôi, về sau mới nhằm mục đích cho bộ óc làm việc.

Cũng từ lâu, tôi muốn tìm một người nào đó có khả năng để tôi giao lại Trang nhà, vì nó được tôi gầy dựng gần 30 năm qua, nào là bài viết, nào là hình ảnh, tôi hy vọng rồi có thể tìm được người có đủ khả năng viết và am tường về kỹ thuật vi tính.

Alzeimer nó không tránh ai, ngay cả Tổng Thống Regan cũng bị nó, làm cho ông có lúc không còn nhớ mình đã từng là Tổng Thống của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, người từng làm tan rã Liên Xô.

Trong gia đình tôi, ông thân và bà thân đều mất sớm, thân phụ tôi mất vừa tròn 60, thân mẫu của tôi hơn 50, cho nên tôi không hiểu về vấn đề Alzeimer với họ, nhưng tôi có một người cô bị Alzeimer, một người cô khác sống thọ đến 94 vẫn được minh mẫn. Tôi muốn tìm hiểu tôi có Gen (gene, gène) sống thọ không ? Có Gen Alzeimer không ?

Trong gia đình tôi có một người anh sinh năm 1928 mất năm 2017, như vậy anh ấy thọ 90 tuổi, rất minh mẫn.

Tôi có quen biết với một Huynh Trưởng ở Sàigòn, sáng nay tôi có một điện thư muốn gửi cho một số anh chị em quen biết, để cùng chia sẻ buồn vui và thưởng thức một bản nhạc, cả hai đều có nội dung về 30 tháng 4. Tôi không nhớ được tên họ Huynh Trưởng đó, nên cố nhớ mãi đến gần 2 tiếng đồng hồ sau tự nhiên tên anh ta bổng hiện ra trong đầu tôi.

Gần đây, bạn bè của tôi mới gặp trước khi có dịch bệnh, nay nhìn lại hình chụp đã quên tên, cố moi óc ra để nhớ, nhưng vẫn không thể nào nhớ nổi anh ta. Mong rằng đó là sự lão hóa bình thường của người cao niên.

Có một anh, cùng là đồng nghiệp nhưng không đồng môn, anh ta trước kia làm chủ một kios bán sách cũ trên vỉa hè Lê Lợi, về sau khá giả, sang lại một kios ở đường Nguyễn Huệ bán máy Photocopy lại có dịp mua bán dollar, phất lên nhanh chóng mua xe Peugeot 505. Một anh bạn đồng nghiệp mời anh đó và tôi đến nhà dùng cơm, chỉ có 3 anh em nên dễ tâm tình, nhứt là cảnh trái ngang của nhiều người trong biến cố 30 tháng 4. Vậy mà vài năm sau gặp lại anh ta trong một buổi họp mặt, tôi không làm sao nhớ anh ta tên chi, tôi đành lẫn tránh anh ta không bắt tay chào nhau, không một lời hỏi han, thật là vô tình, đáng trách.

Để tránh sự quên lãng đó, tôi nghĩ nên gắn tên anh ta vào người khác ở gần mình hoặc có liên hệ thường xuyên với mình cho dễ nhớ. Ví dụ anh đó tên Lang, tôi gán vào nhóm với chị Lan thường có liên lạc với tôi qua Facebook, nhờ vậy tôi không còn quên anh Lang nữa. Những người bạn khác cũng thế.

Như đã viết, tôi có trang Web, có Blog, có Vlog tôi đang lo ngại việc quên của mình, có khi nó ảnh hưởng đến các việc làm đó, viết bài trên Web, trên Blog hoặc dẫn dắt câu chuyện trên Vlog vì quên thành ra sai, cái sai đó làm ảnh hưởng tới hàng ngàn người khác. Điều đó tôi hoàn toàn không muốn. Nếu điều đó xảy ra mong được Độc giả, Thính giả, Khán giả lượng tình tha thứ và nhắc nhở dùm cho. Rất đa tạ sự quan tâm của quý vị và các bạn.

866419042022











 

Thứ Tư, 2 tháng 3, 2022

Đôi khi

Vài hôm rồi, trong khi tìm về những chi tiết về đức Phật Thầy Tây An, tôi vô tình tìm ra được bài của mình viết đã lâu, nay tự nhiên thấy do Website của Bửu Sơn Kỳ Hương lấy đăng lại. Khỏi phải nói là mừng vô hạn và cám ơn Web nầy đã lưu trữ bài của tôi tại:

http://bskhnguyenthuy.blogspot.com/2012/10/phat-thay-tay-va-ao-buu-son-ky-huong.html

Tôi cố tìm bản gốc bài nầy trên các trang Web và Blog của tôi, nhưng không thấy đâu cả, có thể trang Web hay Blog ấy không còn.

Rồi có 1 độc giả gửi tới cho tôi một số pdf files của một quyển sách do Giáo sư Nguyễn Văn Hai viết, trước kia sách giáo sư viết gửi cho tôi đăng trên nguyệt san Phật học do tôi chủ trương, sau giáo sư góp lại thành tập để in sách biếu cho độc giả, rồi giáo sư chuyển cho tôi nguyên bản quyển sách dạng text, sau đó tôi           cất dưới dạng PDF rồi đưa lên mạng.

Từ khi nguyệt san Phật Học không còn in ra báo giấy, giáo sư không còn gửi bài cho tôi và giáo sư in sách cũng không cần tôi nữa, nên tôi không có bản text hay PDF để đưa lên Mạng, mặc dù giáo sư có biếu sách cho tôi sau khi in, trừ quyển sách sau cùng Ngã – Pháp (4-2019).

Có một độc giả gửi cho tôi mấy bản pdf bài của giáo sư trong tập Tư tưởng Phật Giáo troing Triết học Gilles Deleuze, tôi không biết làm sao ghép chúng lại, lên mạng gõ tìm, gặp phải các nơi chỉ dẫn Download các Phần mềm của họ, tôi không thích vì chúng luôn kèm theo cái nọ cái kia nhất là dễ bị virus, nên tôi nhờ con rể tôi ghép lại dùm, sau đó tôi đã đưa lên trang Web của mình. Đêm đã lên giường nằm ngủ, tự nhiên nhớ lại trước đây vài năm mình cũng đã có ghép mấy files pdf, nhưng đã khuya nên nhủ thầm ngủ cái đã, để quá giữa đêm tuổi già khó ngủ. Hôm sau tôi lại lên Mạng gõ tìm: cách ghép các bản pdf thành 1. Google chỉ cho tôi mấy cách, trong đó có link sau đây:

https://tools.pdf24.org/en/merge-pdf

Mặc dù nó không phải công cụ trước kia tôi đã làm, nhưng thử làm cũng tạm được, hoặc dùng:

https://www.freepdfconvert.com/vi/merge-pdf

Nói chung, ngày nay tuổi đã tạm cao nên trí óc thường chậm chạp, quên trước nhớ sau, lú lẫn, nghe một đàng, hiểu một nẽo. Gần đây, tôi thường nghĩ tới chuyện Từ Thức về trần, khi người ta già rồi, bạn bè không còn như xưa, ngày càng thưa vắng, càng thấy cô đơn vì thấy chung quanh mình có nhiều người nhưng họ có những ý tưởng khác, khó hòa nhập với mình.

Ở Sàigòn, có hôm từ Phú Lâm tôi phải gọi Grap đi tới bên kia cầu Sàigòn chỉ để gặp những ông bạn xưa, ngồi uống một ly coffee đen nghe họ nói chuyện với nhau, toàn là nhắc chuyện xưa. Vậy mà mình vui vì cảm thấy có những chuyện có mình trong đó hoặc là mình có biết chút tình tiết hay cảnh vật lúc đó, nó gắn kết với đời sống của minh.

Mong rằng dịch bệnh mau chấm dứt, cuộc chiến ở Ukraine sớm kết thúc, chấm dứt sớm những ngày lo âu, đen tối không vui.

866402032022