Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2020

Tìm hiểu về quyền lực ngầm tại Mỹ

 Về vấn đề chính trị người ta thường hay nói đến quyền lực ngầm tại Mỹ. Tưởng chúng ta cũng cần tìm hiểu khi nói đến vấn đề nầy là người ta muốn nói đến Câu Lạc Bộ Bilderberg hay Nhóm Bilderberg.


Khách sạn Bilderberg ở Hòa Lan

Nó được khởi xướng do một số người, bao gồm cả chính trị gia Ba Lan lưu vong Józef Retinger, vốn lo ngại về sự phát triển của chủ nghĩa chống Mỹ ở Tây Âu, đã đề xuất một hội nghị quốc tế mà các nhà lãnh đạo từ các nước châu Âu và Hoa Kỳ sẽ cùng tham gia nhằm mục đích thúc đẩy chủ nghĩa Đại Tây Dương giữa các nền văn hóa của Hoa Kỳ và Tây Âu để thúc đẩy hợp tác về các vấn đề chính trị, kinh tế và quốc phòng.


Chánh khách Ý Alexandre de Gasperi

Retinger đã tiếp cận Hoàng tử Bernhard của Hòa Lan, người đồng ý thúc đẩy ý tưởng này, cùng với cựu thủ tướng Bỉ Paul van Zeeland, và người đứng đầu của Unilever là Paul Rijkens. Bernhard lần lượt liên lạc với Walter Bedell Smith, người khi đó đứng đầu CIA, và đến lượt Smith đã nhờ cố vấn của Eisenhower là Charles Douglas Jackson giải quyết đề nghị này. Danh sách khách mời sẽ được lập ra bằng cách mời hai người tham dự từ mỗi quốc gia, một trong số họ đại diện cho quan điểm "bảo thủ" và "tự do". Năm mươi đại biểu từ 11 quốc gia ở Tây Âu đã tham dự hội nghị đầu tiên, cùng với 11 người Mỹ. Tổng cộng có 150 người tham dự.


Rosef Retinger

Cuộc họp đầu tiên được khai mạc vào ngày 29 tháng 5 năm 1954 tại khách sạn Bilderberg ở làng Oosterbeek, phía đông Hòa Lan. Hội nghị ra đời từ ý tưởng của Nam tước Edmund Rothschild, chính trị gia Ba Lan Józef Retinger, Hoàng thân Hòa Lan Bernhard, Chủ tịch Tập đoàn Unilever Paul Rijkens, chính trị gia Anh Denis Healey và Giám đốc CIA Walter Bedell Smith. Nội dung kỳ họp năm 1954 được cho là xoay quanh các vấn đề như tăng cường quan hệ về mọi mặt giữa Mỹ và Tây Âu, cũng như hợp tác đối phó với Liên Xô.


Hoàng thân Bernhard

Thành công của cuộc họp đã khiến ban tổ chức sắp xếp một hội nghị thường niên. Một ban chỉ đạo thường trực được thành lập với Retinger được bổ nhiệm làm thư ký thường trực. Cùng với việc tổ chức hội nghị, ban chỉ đạo cũng duy trì một sổ đăng ký tên người tham dự và chi tiết liên lạc với mục đích tạo ra một mạng lưới không chính thức của các cá nhân có thể gọi cho nhau trong khả năng riêng tư. Các hội nghị được tổ chức tại Pháp, Đức và Đan Mạch trong ba năm sau đó. Năm 1957, hội nghị đầu tiên của Hoa Kỳ được tổ chức trên đảo St. Simons, Georgia, với 30.000 đô la tài trợ từ Quỹ Ford. Quỹ này cũng cung cấp kinh phí cho các hội nghị 1959 và 1963.


Bilderberg 1954

Hằng năm, Nhóm Bilderberg họp ở một quốc gia từ ngày thứ năm cho tới chủ nhựt của tháng năm, có khi tháng 6 nhưng vẫn trong mùa xuân. Đây là một qui củ không thay đổi từ năm 1954. Cũng như quyết định họp ở quốc gia nào, người tham dự chỉ được biết vào giờ chót do Ủy Ban Điều hành thông báo. Đi tham dự không được đi với phu nhơn, thư ký hay phụ tá. Không phải đóng phí tham dự, nhưng tự trang trải chi phí đi lại. Suốt thời gian họp, không ai được phép rời khỏi phòng họp. Mọi người đều có thể nói thẳng thắn những suy nghĩ của mình không bị cấm kỵ nhưng tuyệt đối không được đem ra bên ngoài những điều trao đổi tại diễn đàn. Những quyết định không được phổ biến sau phiên họp. Nguyên tắc chung: cởi mở đối thoại, trao đổi nhưng giữ kín nội dung phiên họp.


Chủ tọa và Thư ký đoàn Bilderberg 1954
Tổ chức Bilderberg chỉ có Ủy Ban Điều hành là cơ cấu duy nhứt, đứng đầu là
Chủ tịch, cho đến nay có 7 người làm Chủ tịch. Người được mời tham dự kỳ 
họp do quyết định của Ban Điều hành. Và thay đổi người tham dự tùy theo tình 
hình thế giới, có từ 120 đến 150 người tham dự hàng năm. Đồng Chủ tịch hiện 
nay là Victor Halberstadt và Marie Josée Kravis. Thành viên của họ hiện nay là 
181 gồm nhiều nước ở Châu Âu như Anh, Pháp, Đức, Hòa Lan, Ý, Thụy sĩ, 
Phần Lan Thụy điển…, Mỹ, Canada, Úc ..

Thành phần được mời tham dự họp gồm có: 

- Lãnh đạo quốc gia.
- Chánh trị gia.
- Lãnh đạo các công ty lớn.
- Lãnh đạo các Ngân hàng lớn.

Những đề tài được thảo luận trong lần hội họp năm 2019 tại Khách sạn Montreux ở Genevre: 


Khách sạn Montreux ở Geneve Thụy Sĩ

 

Một trật tự chiến lược ổn định

Điều gì tiếp theo cho Châu Âu?

Biến đổi khí hậu và tính bền vững

Trung Quốc

Nga

Tương lai của chủ nghĩa tư bản

- Anh Quốc rút khỏi Liên minh Âu Châu

Đạo đức của trí tuệ nhân tạo

Vũ khí hóa mạng xã hội

Tầm quan trọng của không gian

Mối đe dọa mạng

Các nhân vật tinh anh trong những tổ chức có thế lực đủ để làm xoay chuyển cục diện thế giới đã tham dự các phiên họp của Bilderberg như:

Henry Kissinger - cựu Bộ trưởng ngoại giao Mỹ, D. Rockefeller của ủy ban quốc tế JP Morgan, Nelson Aldrich Rockefeller, hoàng tử Phillip của Anh. McNamara - Bộ trưởng quốc phòng Mỹ thời Tổng thống Kennedy và sau này là Giám đốc điều hành của Ngân hàng thế giới. Bà Thatcher, cựu Thủ tướng Anh; Valéry Giscard d'Estaing, cựu Tổng thống Pháp; Donald Rumsfeld, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ; Brzezinski, cựu cố vấn an ninh quốc gia; Alan Greenspan, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ FED.

Ông chủ Ngân hàng quốc tế chính là ông chủ đứng đằng sau tất cả những tổ chức này. Dòng họ Rothschild đã là chủ từ rất nhiều hội nghị của Bilderberg.

Theo tuyên bố của ông Józef Retinger, chính trị gia người Ba Lan và là một trong những nhà sáng lập “Nhóm Bilderberg”, thì: “Nhóm không phải là một cơ quan hoạch định chính sách, nên mục tiêu chính là giải quyết những khó khăn giữa Tây Âu và Bắc Mỹ, để cải thiện mối quan hệ hợp tác của các bên, cùng nhau giải quyết những khó khăn giữa các nước châu Âu hoặc thậm chí một số quốc gia nhất định ngoài châu Âu. Sẽ rất khó để xác định những gì đạt được tại hội nghị, nhưng chúng tôi chắc chắn cung cấp một nơi gặp gỡ riêng biệt cho nhiều cá nhân có thẩm quyền trong các lĩnh vực cụ thể. Chúng tôi đã thấy rằng việc trao đổi quan điểm là rất hữu ích, đôi khi có thể tạo ra những ý tưởng mới, và theo cách đó, hội nghị có thể là nơi sản sinh ra nhiều sáng kiến”.

Kể từ cuộc họp khai mạc vào ngày 29 tháng 5 năm 1954 tại khách sạn Bilderberg,  Cuộc họp Bilderberg thường niên đã là một diễn đàn cho các cuộc thảo luận không chính thức nhằm thúc đẩy đối thoại giữa Châu Âu và Bắc Mỹ. Hàng năm, khoảng. 130 nhà lãnh đạo chính trị và các chuyên gia từ các ngành công nghiệp, tài chính, lao động, học thuật và giới truyền thông được mời tham gia Cuộc họp. Khoảng 2/3 số người tham gia đến từ Châu Âu và phần còn lại từ Bắc Mỹ; một phần ba từ chính trị và chính phủ và phần còn lại từ các lĩnh vực khác. Cuộc họp là một diễn đàn cho các cuộc thảo luận không chính thức về các vấn đề lớn. Các cuộc họp được tổ chức theo Quy tắc Chatham House, quy định rằng những người tham gia được tự do sử dụng thông tin nhận được, nhưng danh tính cũng như mối quan hệ của các diễn giả và bất kỳ người tham gia nào khác đều không được tiết lộ. Nhờ tính chất riêng tư của Cuộc họp, những người tham gia tham gia với tư cách cá nhân chứ không phải với tư cách chính thức, và do đó không bị ràng buộc bởi các quy ước của văn phòng của họ hoặc bởi các vị trí đã thỏa thuận trước. Như vậy, họ có thể dành thời gian để lắng nghe, phản ánh và thu thập thông tin chi tiết. Không có chương trình nghị sự chi tiết, không có nghị quyết nào được đề xuất, không có phiếu biểu quyết và không có tuyên bố chính sách nào được ban hành.

Cũng có những người chống tổ chức Bilderberg.
 

 

Cho nên nói rằng có thế lực ngầm điều khiển chánh phủ Mỹ cũng đúng phần nào, nhưng cũng không đúng vì Bilderberg chỉ là diễn đàn hướng dẫn cho những nhân vật quan trọng có thể theo đó mà hoạch định đường lối cho mình, có thể làm ảnh hưởng tới người khác. Nhưng chắc chắn có một điều là thế lực ngầm do sức mạnh của đồng tiền tạo nên ở Mỹ cũng không phải là ngoại lệ. 

Henri de Castries

 Thành viên Ban Điều Hành Bilderberg

Chủ tịch

Bernhard of the Netherlands (NLD)
Alec Home of the Hirsel (GBR)
Walter Scheel (DEU)
Eric Roll of Ipsden (GBR)
Peter Carrington (GBR)
Etienne Davignon (BEL)

Henri de Castries (FRA)

Tổng Thư Ký Danh Dự

John S. Coleman (USA)
Paul van Zeeland (BEL)
Joseph H. Retinger (GBR)
Joseph E. Johnson (USA)
Arnold Th. Lamping (Deputy) (NLD)
Ernst H. van der Beugel (NLD)
William P. Bundy (USA)
Paul B. Finney (USA)
Theodore L. Eliot, Jr. (USA)
Casimir A. Yost (USA)
Victor Halberstadt (NLD)
J. Martin Taylor (GBR)

Các Hội viên 

Ackermann, Josef (DEU)

Gerstner, Louis V. (USA)

Perkins, James A. (USA)

Agnelli, Giovanni (ITA)

Getchell, Charles (USA)

Pesmazoglu, John S. (GRC)

Agius, Marcus (GBR)

Griffin, Anthony G.S. (CAN)

Prodi, Romano (ITA)

Agnelli, Umberto (ITA)

Gubbins, Colin (GBR)

Pury, David de (CHE)

Airey, Terence (GBR)

Gustafsson, Sten (SWE)

Reisman, Heather M.9CAN)

Allaire, Paul A. (USA)

Hallgrimsson, Geir (ICE)

Ridgway, Rozanne L. (USA)

Andersen, Tage (DNK)

Hauge, Gabriel (USA)

Rijkens, Paul (NLD)

Androsch, Hannes (AUT)

Hauge, Jens (NOR)

Rockefeller, David (USA)

Arliotis, Charles C. (GRC)

Healey, Denis W. (GBR)

Rockefeller, Sharon Percy (USA)

Apunen, Matti (FIN)

Heinz, Henry J. (USA)

Rodriguez Inciarte, Matias (ESP)

Ball, George W. (USA)

Höegh, Leif (NOR)

Roll of Ipsden, Lord (GBR)

Balsemão, Francisco P (PRT)

Höegh, Westye (NOR)

Rothschild, Edmond de (FRA)

Barnevik, Percy (SWE)

Holbrooke, Richard C. (USA)

Ruggiero, Renato (ITA)

Baumgartner, Wilfrid S. (FRA)

Hubbard, Allan B. (USA)

Sabia, Michael (CAN)

Baverez, Nicolas (FRA)

Igler, Hans (AUT)

Sainsbury, John (GBR)

Bennett, Jack. F. ( USA)

Iloniemi, Jaakko (FIN)

Saraceno, Pasquale (ITA)

Bennett, Sir Frederic M. (GBR)

Jacobs, Kenneth (USA)

Scholten, Rudolf (AUT)

Bernabè, Franco (ITA)

Jankowitsch, Peter (AUT)

Schrempp, Jürgen E. (DEU)

Bertram, Christoph (INT/DEU)

Janssen, Daniel E (BEL)

Schwab, Klaus (INT)

Beyazit, Selahattin (TUR)

Johnson, James (USA)

Seidenfaden, Tφger (DNK)

Birgi, Nuri (TUR)

Jordan, Jr., Vernon E. (USA)

Seillière, Ernest-Antoine (FRA)

Black, Conrad M. (CAN)

Karsten, C. Frits (NLD)

Sheinkman, Jack (USA)

Boveri, Walter E. (CHE)

Kerr, John (GBR)

Silvestri, Stefano (ITA)

Brandtzaeg, Svein Richard (NOR)

Kiraç, Suna (TUR)

Smith, John (GBR)

Brady, Nicholas F. (USA)

Kissinger, Henry A. (USA)

Snoy et d'Oppuers, Jean C. (BEL)

Carras, Costa (GRC)

Kleinfeld, Klaus (DEU)

Sommer, Theo (DEU)

Carvajal Urquijo, Jaime (ESP)

Knight, Andrew (GBR)

Stone, Shepard (USA)

Cary, Frank T. (USA)

Kohnstamm, Max (INT)

Summers, Lawrence H. (USA)

Cavendish-Bentinck, Victor F.W. (GBR)       

Kopper, Hilmar (DEU)

Sutherland, Peter D. (IRL)

Cebrián, Juan Luis (ESP)

Korteweg, Pieter (NLD)

Taverne, Dick (GBR)

Christiansen, Hakon (DNK)

Kothbauer, Max (AUT)

Taylor, Arthur R. (USA)

Cittadini Cesi, Gian G. (ITA)

Krauer, Alex (CHE)

Taylor, J. Martin (GBR)

Clark, W. Edmund (CAN)

Ladreit de Lacharrière, Marc (FRA)

Terkelsen, Terkel M. (DNK)

Clarke, Kenneth (GBR)

Lambert, Léon J.G (BEL)

Tidemand, Otto Grieg (NOR)

Collado, Emilio (USA)

Lévy-Lang, André (FRA)

Trichet, Jean Claude (INT)

Collomb, Bertrand (FRA)

Lord, Winston (USA)

Tsoukalis,Loukas (GRC)

Corzine, Jon S. (USA)

Lundvall, Björn (SWE)

Umbricht, Victor H. (CHE)

Dam, Kenneth W. (USA)

Lütolf, Franz J. (CHE)

Valetta, Vittorio (ITA)

David, George M. (GRC)

MacLaurey, Bruce K. (USA)

Vasella, Daniel L. (CHE)

Davignon, Etienne (BEL)

Mathias, Charles McC. (USA)

Vranitzky, Franz (AUT)

Dean, Arthur H. (USA)

Mathews, Jessica T. (CAN)

Wallenberg, Jacob (SWE)

Deleuran, Aage (DNK)

Maudling, Reginald (GBR)

Warsh, Kevin M. (USA)

Donilon, Thomas E. (USA)

Meynen, Johannes (NLD)

Werring, Niels (NOR)

Duisenberg, Willem F. (NLD)

Mitchell, George J (USA)

Whitehead, John C. (USA)

Duncan, James S. (CAN)

Montbrial de, Thierry  (FRA)

Whitman, Marina von Neumann (USA)

Eldrup, Anders (DNK)

Monti, Mario (ITA)

Williams, Joseph H. (USA)

Elkann, John (ITA)

Moyers, Bill D. (USA)

Williams, Lynn R. (USA)

Enders, Thomas (DEU)

Murphy, Robert D. (USA)

Wischnewski, Hans-Jürgen (DEU)

Federspiel, Ulrik (DNK)

Myklebust, Egil (NOR)

Wolfensohn, James D. (USA)

Finley, Murray H. (USA)

Nass, Matthias (DEU)

Wolff von Amerongen, Otto (DEU)

Frame, Alistair (GBR)

Nφrlund, Nils (DNK)

Wolfowitz, Paul (USA/INT)

Franks, Oliver (GBR)

Ollila, Jorma (FIN)

Yost, Casimir A (USA)

Frum, David (CAN)

Oort, Conrad J. (NLD)

Zannoni, Paolo (ITA)

Gaitskell, Hugh T.N. (GBR)

Padoa-Schioppa, Tommaso (INT/ITA)     

Zoellick, Robert (USA)

 

Xem đầy đủ hình ảnh tại:

  https://www.youtube.com/watch?v=GF6WwQ5fLd0

        

866430102020





Thứ Tư, 14 tháng 10, 2020

Vài nét về Tiểu bang Kentucky

Xin giới thiệu vài nét về Tiểu bang Kentucky, nơi tôi định cư từ năm 1991 cho đến nay.

Kentucky là Tiểu bang gia nhập vào nước Mỹ từ ngày 1 tháng 6 năm 1792, đứng thứ 15 sau Tiểu bang Vermont thứ 14 và trước đó có 13 Tiểu bang thuộc miền Đông Bắc Hoa Kỳ là những Tiểu bang sơ khởi thành lập Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, nên trên cờ Mỹ có 13 vạch trắng đỏ tượng trưng cho 13 tiểu bang đó và 50 ngôi sao, tượng trưng cho 50 tiểu bang ngày nay.

Kentucky nằm về Đông Nam Hoa Kỳ, phía Đông giáp với Tiểu bang West Virginia, Virginia, phía Nam giáp với Tennessee, phía Tây giáp với Missouri và phía Bắc giáp với Illinois, Indiana, Ohio. Kentucky có tên thường gọi là Tiểu bang Blue Grass, nó là giống cỏ poa, khi có hoa màu xanh dương, chủ yếu ở vùng Lexington.

Kentucky có diện tích 174.749 km2, hạng 37, dân số năm 2018 là 4.468.402 đứng hang 25, mật độ 25/km2 đứng hạng 23. Thủ phủ Franfork, thành phố lớn là Louisville. Nơi Tổng Thống Abraham Lincoln sinh ra ở quận hạt Hardin.

Kentucky có sông Ohio, sông Mississippi chảy qua, vùng đồi núi Eden Shale cao 1.263m, ở phía Tây Nam có thác Cumberland, sương mù có khi tạo thành cầu vòng trắng.

Thác Cumberland

Kentucky có hang động Mamouth Cave nổi tiếng dài và đẹp, trong hang động có dòng sông.

Hang động Mamouth Cave

Có trường đua ngựa Churchill Downs nổi tiếng thế giới, hàng năm có đua từ 1875 đến nay chưa hề ngưng nghỉ năm nào, Mỗi năm đều có ngày Derby Day, trong ngày ầy có giải Hoa Hồng.

Trường đua ngựa Churchill Downs

Có sân bay quốc tế Standifort Field là trung tâm đầu nối của hãng chuyển vận UPS.

UPS tại phi trường SDF ở Louisville

Có kho chứa vàng tại Fort-Knox, nơi đây có trường Bộ Binh và Trường Thiết Giáp, tạo nên sự an ninh tuyệt đối cho Hầm chứa vàng. Tưởng cũng nên nói thêm, trước thập niên 1970, Mỹ cất giữ trên 20.000 tấn vàng do các nước gửi từ trước Đệ nhị thế chiến. Đồng dollar Mỹ được bảo đảm bằng vàng, nhưng do Mỹ và Pháp lúc đó không vừa lòng nhau. Tổng Thống Pháp De Gaule lấy vàng đã gửi cho Mỹ đem về Pháp với thâm ý làm cho thế giới mất lòng tin Mỹ, tiền Mỹ sẽ bị mất giá, kinh tê Mỹ sẽ suy thoái. Tổng Thống Mỹ là Richard Nixon ngày 15-8-1971 ra đạo luật hủy bỏ bản vị đồng dollar là vàng, tuyên bố nếu các nước tin tưởng vào tiềm năng của nước Mỹ thì cứ giao dịch. Ngay sau đó, nền kinh tế Mỹ vẫn đứng vững, các nước giao dịch với Mỹ bình thường.

Hầm chứa vàng của Mỹ tại Fort-Knox

Chúng ta cũng nên biết qua trữ lượng vàng của thế giới vào năm 2019.

- Mỹ : 8.133 tấn
- Anh: 5.134 tấn
- Đức: 3.369 tấn
- Italy: 2.451 tấn
- Pháp: 2.436 tấn
- Nga: 2.150 tấn
- Trung Quốc: 1.474 tấn
- Thụy Sĩ: 1.040 tấn
- Nhật Bản: 765 tấn
- Hòa Lan: 612 tấn
- Ấn Độ: 608 tấn

Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975 có 16 tấn vàng, tồn trử ở Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam tại Bến Chương Dương, Quận1, Sàigòn.


Chỉ có kho vàng của Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang New York (New York FED) là cho công chúng tham quan theo tour trong 1 tiếng buổi chiều, từ 13 giờ tới 14 giờ từ thứ 2 tới thứ 6 (trừ ngày lễ). Trong khi đó, học sinh/sinh viên sẽ được tham quan kho vàng 1 tiếng buổi sáng từ 10 giờ tới 11 giờ. Số lượng khách tham quan tối đa trong một lần là 25 người.

Kentucky còn nổi tiếng khắp thế giới với hiệu ăn FKC.


8664141020