Thứ Năm, 7 tháng 10, 2021

Ý tưởng kỳ lạ.

 Hôm nay có người gửi email đến cho tôi để tham gia vào Nhóm Huỳnh Ái Tông. Thật ra tôi không có Nhóm nầy mà chỉ có Nhóm Trung Học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ để các em học sinh cũ của tôi có nơi liên lạc với nhau, chia sẻ những kỷ niệm vui buồn.

Người nầy ghi là ở Saigon, Wadi Fira, Chad. Tôi đã sống ở Sàigòn từ những năm 1956 cho đến 1991, trải qua những ngày niên thiếu ở đó, đã rong chơi, cắm trại nhiều nơi nào là Thủ Đức, Hóc Môn, Tân Thuận … nhưng chưa hề nghe biết vùng nào là Wadi Fira, Chad hoặc giả đây là chung cư, cao ốc mới xây có tên nầy. Vì không biết, buộc lòng tôi phải lên mạng nhờ Google tìm, cuối cùng tôi được biết đây là 1 trong 23 vùng lãnh thổ của Cộng Hòa Tchad ở Phi Châu.

Tôi có nhận định rằng những người trẻ luôn có những ý nghĩ mới lạ. Tôi đã vào Facebook của Saigon, Wadi Fira Chad thấy có rất nhiều người ghi là sống và làm việc tại Saigon, Wadi Fire, Chad hoặc vừa mới chuyển tới …

Người Việt ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long nói chung là Miền Tây, chân lấm tay bùn quanh năm với đồng ruộng, muốn đi đến Sàigòn trải nghiệm một lần cho biết vì nó đã từng được mang tên Hòn Ngọc Viễn Đông.

Người ở Sàigòn, muốn được đi Huế, đi Hà Nội một lần cho biết vì Huế có cung điện lăng tẩm vua chúa ngày xưa, có chùa chiền cỗ kính như Thiên Mụ, Diệu Đế, còn Hà Nội có Hồ Gươm, Đền Ngọc Sơn. Đó là những nơi danh tiếng đẹp đẻ, thiêng liêng gắn liền với lịch sử nước nhà.

Ở nước ngoài người ta muốn du lịch tới tháp Eiffel của xứ Pháp, tới Nữu Uớc, tới Hollywood của Mỹ vì những nơi nầy danh tiếng toàn cầu.

Còn Chad hay Cộng hòa Tchad là một xứ Phi Châu, nói chung là Châu Phi nghèo khó, chỉ có Dubai hiện nay là giàu có xây những toà nhà hiện đại, có tòa nhà cao chọc trời Burj Khalifa có đến 211 tầng, cao đến 828 thước. có khách sạn người ta dùng 16 tấn vàng để trang trí và tại đây có món ăn uống có vàng ăn uống được.

Toà nhà Burj Khalifa ở Dubai

Đó là những nơi đáng đến, đáng sống để trải nghiệm, còn Chad có chi mà đua nhau giới thiệu đã chuyển đến Wadi Fira, sinh và lớn lên tại Wadi Fira hay làm việc tại Wadi Fira !!!

Tôi nghĩ nhiều người trẻ có đầu óc khó hiểu, ít có người nào muốn hay có ước vọng trở thành Steve Jobs người đồng hành với Steve Wozniak đã sáng tạo ra sản phẩm Apple mà ngày nay hàng triệu triệu người sử dụng.

Nhờ Jobs mà ngày nay, người ta cách xa vạn dậm vẫn có thể thấy nhau, nói chuyện với nhau, chỉ có chưa được bắt tay nhau mà thôi.

Tôi có một anh học sinh cũ, sau nầy anh ấy theo học và tốt nghiệp ngành Vật Lý tại đại học danh tiếng Stanford ở California, anh ấy đã đưa tôi đi tham quan nơi đây 1 ngày, nhờ đó tôi biết được phần nào về Stanford University. Những người trẻ Việt Nam ta nên mong ước mình được theo học tại Stanford ở San Jose hay Harvard ở Massachusetts được mở mang kiến thức, giúp ích cho đời, cho đất nước mình giàu mạnh, tự do, hạnh phúc.

Đại học Stanford ở San Jose, California

866407102021







Thứ Sáu, 13 tháng 8, 2021

Thời tiết đổi thay

 Năm nay có lẽ thời tiết thay đổi khác hơn mọi năm, hoa sen trong hồ trước nhà tôi  hôm qua có trổ một cái hoa, tôi nghĩ đây là cái hoa cuối cùng trong năm vì không thấy có búp sen nào nữa.

Hoa đậu biếc, tôi có gieo trồng nhiều hạt qua vài đợt, có 2 chậu đã trổ bông, nhận thấy dây hoa có vẻ không tươi tốt, tôi vun phân, nhưng hoa thì vẫn trổ mà lá úa vàng và rụng nhiều.

Cũng có chậu hoa đậu biếc lá xanh trông thật là tươi tốt, hứa hẹn những dây hoa đậu biết nầy sẽ cho ra nhiều hoa kết quả nhiều trái, nhưng mùa Hè sắp sửa đi qua, mùa Thu sẽ tới chưa biết rồi những dây hoa đậu biết sẽ ra sao ? Năm ngoái những chậu hoa để ngoài trời đều chết hết, chỉ có  một chậu đem vào nhà thì sống, nhưng cuối cùng cũng chết vì không chịu được lạnh.

Đầu năm nay, có cô Điệp Nguyễn  Texas xin của tôi mấy trái, cô trồng có hoa đã gửi hình cho tôi xem.


    Cô Bích Liên  San Jose cũng xin hạt giống, tôi cho mấy trái, cô trồng cũng có hoa.

     

 

Họ đã gửi ảnh cho tôi xem, hy vọng các cô sẽ nhân giống ra thành nhiều dây khác, hy vọng một ngày nào đó Hoa đậu biếc sẽ mọc và trổ hoa ở nhiều nơi vì hoa nó chẳng những đẹp mà còn làm thuốc điều trị về Tiểu đường, dùng hoa ấy để nhuộm màu cho xôi ba màu: màu cam của trái Gấc, màu tím của Hoa Đậu Biếc.

Trong chậu của tôi, tôi chỉ mới thấy và đếm được có 4 trái, cũng hy vọng sẽ thu hoạch được vài chục trái trước khi mùa Đông tới, những dây Hoa Đậu Biếc của tôi phải chết vì giá rét của xứ lạnh nầy.


Gần đây, mỗi năm đều thấy thời tiết đổi thay, những trận lũ lụt, cuồng phong, cháy rừng đã xảy ra các nơi. Thiên tai đã cướp đi sinh mạng của nhiều người. Cầu mong cho mưa hòa, gió thuận nhà nhà được anh vui, xứ xứ được thanh bình an lạc.

866413082021

 

 

Chủ Nhật, 11 tháng 7, 2021

Những người Mỹ bạn tôi

Gia đình tôi đi định cư ở Mỹ theo diện HO năm 1991. Tôi đi Học tập cải tạo chỉ có 2 năm, 2 tháng, 20 ngày, nhưng tôi được đi diện HO nhiều người không tin như vậy, ngay cả những anh đi HO ở cùng thành phố với tôi.

Có rất nhiều yếu tố để tôi được đi HO, tôi xin nói ngay một là năm 1984 chị tôi cùng gia đình đi Mỹ, trước đó tôi xin đi Pháp do anh tôi bảo lãnh, nhưng về sau anh cho biết là Pháp đã nghèo, đi sang Mỹ tốt hơn và anh ấy nhờ chị tôi bảo lãnh cho tôi đi Mỹ.

Năm 1988, cơ quan ODP của Mỹ gửi thư cho chị tôi báo rằng sẽ phỏng vấn tôi một ngày gần đây, nhưng tôi chờ cho đến năm 1990, có người bảo tôi chờ lâu quá làm đơn khiếu nại gửi sang Bangkok, yêu cầu họ cứu xét, nên tôi làm theo gợi ý nầy và tôi cũng biết đi học tập cải tạo chưa đủ 3 năm sẽ không được đi HO, nên trước đó tôi không hề làm đơn xin đi diện HO, nhưng khi yêu cầu họ cứu xét cho tôi đi theo diện Đoàn tụ (ODP), tôi có nêu lý do là tôi có đi học tập cải tạo 2 năm 2 tháng 20 ngày, sau đó tôi bị quản chế trên 2 năm mới được trả quyền công dân. Tổng cộng như là tôi bị 4 năm. Theo như người bình thường chỉ bị quản chế 6 tháng là được trả quyền công dân. Còn tôi thật ra được về sớm là nhờ một bạn tù giúp tôi, vì bố anh ta nguyên là Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn đang trông coi chúng tôi.

Rồi khi tôi được tạm tha về ngày 16-9-1977, đến ngày 14-10-1977 chưa được 1 tháng, chưa có Hợp Đồng trong tay, tôi được gọi đi làm ở Phòng Thanh Tra Sở Lao Động, do ông Kiến Trúc Sư Nguyễn Hữu Thiện, người chủ trì kiến trúc Thư viện Quốc Gia ở đường Gia Long Sàigòn, Phó Giám Đốc Sở Xây Dựng Tp. HCM, giới thiệu cho tôi đi làm.

Vì tôi đi làm 1 tuần rồi mà chưa có Hợp Đồng trong tay để xin nhập Hộ Khẩu, xin mua gạo theo tiêu chuẩn, nên tôi tìm gặp ông Lâm Tấn Lộc Chánh văn phòng Sở Lao Động, hỏi ông ta về hợp đồng, ông ta vui cười bảo tôi:

- Cháu đã đi làm ở Sở Lao Động là nơi phụ trách về chánh sách, các Sở khác còn phải đem hợp ồng đdến đây duyệt mà ! Đừng lo ! Nhưng để tôi bảo anh Thành Phó Văn Phòng làm Hợp Đồng cho cháu.

Do ông Lộc cho biết như thế, nên sau khi về đủ 6 tháng, đủ tiêu chuẩn xin phục hồi Quyền Công Dân, tôi chẳng thèm gửi đơn xin, vì vậy gần 2 năm sau anh Công an khu vực mang Quyết định phục hồi Quyền Công dân đến nhà giao cho tôi.

Sang đến phi trường Bangkok, làm hồ sơ ký giấy nợ tiền vé máy bay, tôi cũng không quan tâm lắm chỉ biết rằng mình đi máy bay mà không mua vé thì có nợ, nay ký giấy nợ để trả sau. Vậy là tốt rồi. Sang tới Mỹ về chỗ định cư, chị tôi thuê sẵn chung cư cho gia đình tôi ở. Vài ngày sau có một anh người Việt làm cho Hội USCC đến chung cư làm hồ sơ cho gia đình tôi. Anh ta báo cho biết tôi được hưởng quy chế của diện HO, được lãnh tiền Welfare … Lúc đó tôi mới biết mình đi theo diện HO, nhưng trên danh sách chuyến bay, gia đình tôi thuộc danh sách B… đi chung với những người HO6, trong đó chỉ có duy nhất một gia đình thuộc danh sách HO7, do một người phụ nữ đứng tên.

Năm 1994, gia đình tôi đi mua nhà có 3 phòng ngủ, 1 phòng tắm, có đủ phòng khách, phòng ăn, nhà bếp và tầng hầm (basement), có thêm phòng ngủ, phòng sinh hoạt gia đình và một quầy rượu, phía sau nhà có cái Deck. Thời giá lúc đó là 64 ngàn.

Cạnh nhà tôi là cập vợ chồng ông Jack Shanoff và bà vợ Diana, bà Diana người gốc ở Pensylvania. Ông Jack có đời vợ trước, có người con trai đã có gia đình và sinh sống ở New Mexico, tôi chưa từng thấy con trai ông Jack đến thăm ông, nhưng người anh của ông là William Schanoff thỉnh thoảng tới thăm, đôi khi Bill cũng qua nhà thăm tôi, tôi cũng có đến nhà thăm Bill đôi lần, ông đã hưu và sống độc thân.

Jack và Diana luôn luôn giúp đỡ chúng tôi, thấy tôi không biết điều chi anh ta hoặc vợ luôn chỉ dẫn cho tôi. Chẳng hạn như có một lần mưa đá, Jack bảo tôi gọi bảo hiễm báo cho họ đến xem sự hư hỏng mái nhà, sau đó bảo hiểm cho biết bị hư hỏng mấy chỗ, họ sẽ đền tiền để sửa mấy chỗ đó. Jack bảo tôi:

- Anh để tôi giải quyết cho! Không thể sửa chữa mấy chỗ như vậy được !

Rồi Jack gọi điện thoại cho hãng bảo hiểm. Cuối cùng họ bằng lòng trả tiền lợp lại cả 2 mái. Jack lại gọi cho người lợp nhà đến lợp lại nhà cho tôi.

Có khi xe Jack hư vào lúc tuyết đổ nhiều, tôi đưa Jack đi chợ mua thức ăn.

Vài năm sau, Jack bán nhà đi ở chung cư, ở được vài năm vợ chồng Jack di chuyển về New Mexico để ở gần con trai, từ đó Jack và tôi không còn liên lạc nữa.

Trước khi bán nhà, Jack kêu tôi bán rẻ chiếc xe của Jack, tôi bảo tôi không có nhu cầu, hôm sau Jack bảo là cho tôi chiếc xe đó, tôi trả lời cám ơn và lập lại mình không có nhu cầu, hơn nữa tôi không thích xe của Jack cồng kềnh, vài hôm sau Jack bán xe cho người lạ.

Lúc làm ở Công ty, khi thì ở Xưởng, lúc ở văn phòng, nhất là khi làm ở Xưởng, tôi không có bạn Mỹ, chỉ có bạn Việt Nam, Thái hoặc Lào hay Campuchea. Nhưng từ khi về hưu, mỗi ngày đi vào trong Mall để đi bộ thể dục, chúng tôi quen với nhiều người bạn Mỹ, vì họ cũng đi bộ thể dục, gặp nhau, đi song hành, hàn huyên nên trở thành bạn.


Trong số bạn đó có Tom với Bill là đôi bạn thường đi chung với nhau, Tom thì mập còn Bill thì ốm và già hơn Tom. Có hôm Tom nói với tôi:

- Tông ! Bill là nhà sản xuất rượu Bourbon. Hôm nào Bill sẽ cho anh uống vài ly Bourbon.

Rượu Bourbon là loại rượu mạnh làm từ bắp. Đất ở vùng Kentucky tôi thường thấy trồng bắp và đậu nành, họ trồng như thế nầy, năm nay trồng bắp sang năm trồng đậu rồi sang năm tới trồng bắp cứ thay phiên trồng như thế.

Tôi chưa được uống rượu của Bill thì một hôm Tom cho tôi biết Bill đã qua đời rồi!

Năm 2012, tôi đi về Việt Nam trong thời gian bầu cử ở Mỹ, Tom hỏi tôi có muốn đi bầu cử sớm không, tôi cho biết muốn. Thế là sau khi đi bộ thể dục xong, hắn đưa nhà tôi và tôi đến một nơi gần Dowtown của thành phố Louisville, để chúng tôi bầu cử sớm. Tôi nhớ lần đó nhà tôi và tôi mỗi người đều phải điền tờ giấy, trong đó có ghi lý do vì sao đi bầu cử sớm.

Lúc bầu cử xong, trên đường về, Tom ghé ngang một nghĩa địa gần đó, đưa tôi đến một ngôi mộ, hắn cho tôi biết đó là mộ của vợ hắn và bên cạnh đó có một sinh phần với tấm mộ bia tên của Tom, hắn cho tôi biết rồi hắn sẽ được chôn cất tại đây. Sau khi đi Việt Nam về, tôi vẫn đi bộ tập thể dục nhưng không gặp lại Tom, cho đến một hôm tôi đến Kroger mua thức ăn, gặp lại Tom, chúng tôi chào hỏi nhau. Tôi có hỏi nhà Tom ở đâu, hắn cho biết ở gần đó. Rồi từ đó tới nay tôi chưa gặp lại Tom.

Trong số những người bạn Mỹ quen biết khi đi bộ thể dục có John, hắn không đi bộ thể dục, nhưng hàng tuần hắn vào trong Jefferson Mall đó để lau chùi mấy cái máy bán thức ăn, nước uống rồi hắn ngồi ở bàn ăn trò chuyện với những người Mỹ khác. John gặp tôi luôn bắt tay, chào hỏi thân thiện, có hôm nhà tôi không cùng đi với tôi, hắn hỏi thăm tôi: “Vợ anh đâu rồi ? Chị có khỏe không ?”

Thấy hắn đi xe có gắn bản Chiến Binh Việt Nam, tôi hỏi:

- John ! Khi tham chiến Việt Nam. Anh đóng quân ở đâu ?

- Tôi đồn trú ở phía Bắc Sàigòn !

Tôi đoán không phải là Tân Sơn Nhất. Có lẽ ở Long Bình.

John người bạn Cựu Chiến Binh Mỹ

Có cặp vợ chồng người Mỹ kia, bà vợ tên là Barbara. Lúc trò chuyện với nhà tôi, bà ta cho biết thích ăn món chả giò, hình như người Mỹ nào ăn được thức ăn Tàu hay Việt Nam đều thích ăn chả giò. Một hôm nhà tôi hẹn trước rồi chiên khoảng 15 cái chả giò đem cho bà ta.

Mấy hôm sau gặp lại khi đi bộ thể dục bà Barbara dúi vào tay nhà tôi cái Thẻ coffee Starbucks, từ chối cách mấy cũng không được, bà ta cho địa chỉ mời tới nhà chơi. Sau đó, chúng tôi tới nhà bà Barbara vài lần. Hai vợ chồng tiếp đón chúng tôi ân cần. Dần dần hai vợ chồng không còn đi bộ thể dục nữa, chúng tôi cũng không tiện đi ngang ghé thăm.

Việt Nam ta có câu “Xa mặt cách lòng”, lâu ngày không gặp, dần dần quên đi, từ hơn năm nay dịch bệnh, tôi cũng không có đi bộ thể dục ở Jefferson Mall, nên không biết John và những người bạn khác như thế nào ? Vì còn những người bạn khác người Đại Hàn, người Ấn độ gặp nhau chỉ Hello ! Hay vẫy tay chào. Hy vọng họ vẫn an lành để sau mùa dịch còn gặp lại tay bắt, mặt mừng, héllo và vẫy tay chào nhau như ngày nào chưa có dịch Coronavirus Vũ Hán vậy.

866411072021

 

 

 

 

 

 

Thứ Ba, 1 tháng 6, 2021

Cái Rọ Chức Sắc

 Con người ta sinh ra ở đời đa số đều bị 5 thứ sau đây chi phối, làm cho người ta không thể tinh tấn trong tu học. Năm thứ đó trong giáo lý nhà Phật gọi là: Tài, sắc, danh, thực, thùy.

Người tu là sửa chữa những thứ không tốt để được tốt đẹp hơn, chẳng hạn như tập không ham muốn có tài, có sắc đẹp, có danh phận, được ăn ngon, ngủ nghỉ nhiều.

Khi tu tập trong giới luật nhà Phật chia ra những người mới tập tu giữ 5 giới: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Những người nầy được gọi là Phật tử. Những người vào chùa tập tu giữ 10 giới gọi là Sa Di:

 

1. Không sát sinh. 2. Không trộm cướp. 3. Không phi phạm hạnh (không dâm). 4. Không vọng ngữ. 5. Không uống rượu. 6. Không đeo tràng hoa thơm, không dùng dầu thơm xoa thân. 7. Không ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, không cố ý đến xem nghe. 8. Không ngồi nằm giường lớn cao rộng. 9. Không ăn phi thời. 10.Không cần giữ sanh tượng vàng bạc vật báu.

 

Rồi thọ Tỳ Kheo cũng gọi là Cụ túc giới tức là phải giữ 250 giới cho phái Nam và 348 giới cho phái Nữ.

 

Xưa kia những danh từ như Đại Đức, Thượng Tọa, Hòa Thượng là những từ tôn xưng. Những ai thọ Cụ túc giới được Phật tử gọi là Đại đức, những vị thọ Cụ túc tu lâu năm, được tôn xưng là Thượng Tọa, còn những vị tu lâu năm giới đức trang nghiêm được giới tu hành cung thỉnh vào ngôi vị Tam sư để truyền giới, trong các giới đàn, thì có một vị được gọi là Đàn Đầu Hòa Thượng còn 2 vị kia là Yết ma A xà lê và Giáo Thọ A xà lê.

 

Từ những giới đàn truyền giới nầy, người ta kính trọng vị Đàn Đầu Hoà Thượng, từ đó người ta luôn tôn xưng là Hòa Thượng.

 

Ngày nay, theo tổ chức Phật Giáo hiện thời, vị nào thọ Cụ Túc Giới là Đại Đức, tu 20 năm, đủ 40 tuổi là Thượng Tọa, vị nào tu 40 năm, đủ 60 tuổi là Hòa Thượng lại phải được cơ quan nào đó duyệt công nhận mới hợp pháp. Cho nên ngày nay có nhiều rất nhiều Hòa Thượng, phải chăng đó là cái rọ danh lợi. Vì vậy có những vị chân tu chỉ ghi là Tỳ Kheo hay Tỷ khưu  mà thôi, người Phật tử vẫn kính trọng hơn danh xưng Hòa Thượng.


 

Có vị cố ý hoặc vô tình dùng chức danh khác, chẳng hạn như ở Pháp tại Làng Mai có Sư Ông Nhất Hạnh, còn có danh xưng là Thiền sư. Ở Mỹ tại chùa Pháp Quang Dallas, Texas có Sư Ông Trí Hiền, đức hạnh của những vị cao Tăng nầy luôn được mọi người tôn kính.


8664010621







Thứ Sáu, 9 tháng 4, 2021

Tưởng niệm nhà thơ Nguyễn Đức Sơn (1937-2020)

  

Nguyễn Đức Sơn là nhà thơ quê gốc làng Thanh Lương, huyện Hương Trà,Thừa Thiên Huế, ông được giới văn nghệ yêu nước miền Nam trước năm 1975 gọi là một trong ba kỳ nhân của thời đó (hai người còn lại là Bùi Giáng và Phạm Công Thiện)

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn sinh ngày 18 tháng 11 năm 1937 tại làng Dư Khánh, tỉnh Ninh Thuận 

Nguyễn Ðức Sơn bắt đầu công việc viết của mình với bút hiệu Sao Trên Rừng. Ông được coi là một người có cá tính đặc biệt. Tuổi còn trẻ nhưng thơ đã chớm hoài nghi, đã thắc mắc về những câu hỏi đầy tính siêu hình.

Theo sự sắp xếp của làng văn miền Nam trước năm 1975, ngoài việc được gọi là một trong ba kỳ nhân của làng văn nghệ, ông còn được sắp xếp theo kiểu "thuần văn học hơn" là một trong tứ trụ thi ca của miền Nam, ba người còn lại là Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên.

Thi sĩ đã từng theo học tại Đại học Văn khoa Sài Gòn nhưng nửa chừng bỏ học.Ông ở nhiều nơi Phan Rang, Sài Gòn, Bình Dương-Thủ Dầu Một, Blao-Lâm Đồng và sinh sống bằng nghề dạy học.

Năm 1967 Nguyễn Đức Sơn lấy bà Nguyễn Thị Phượng. Đám cưới ông bà được tổ chức tại chùa Tây Tạng, Thủ Dầu Một-Bình Dương

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn có 9 người con. Người con thứ tư của ông là Nguyễn Đức Vân. Ông là người " nổi tiếng hơn cả", vì ông được cho là " người có gương mặt giống hệt... Tổng thống Mỹ Barack Obama[

Năm 1979, Ông cùng gia đình mình rời bỏ chốn phồn hoa đô thị chuyển lên ngọn núi Phương Bối, Lâm Đồng để... sống một cuộc sống thanh tịnh[3].

Hiện ông sống tại Phương Bối, Bảo Lộc, Lâm Đồng, Ông nổi tiếng là lão thi sĩ vạn thông (vì ông trồng một vạn cây thông) với biệt danh Sơn Núi

Bên cạnh việc làm thơ, ông Nguyễn Đức Sơn cũng có nhiều truyện ngắn đăng trên các tạp chí Văn Nghệ, Thế Kỷ Hai Mươi khoảng 1960, trên tuần báo Khởi Hành của Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội và Thời Tập những năm 1969-1973.

Ông mất lúc 3h sáng ngày 11/6/2020., t ại B ảo L ộc Thọ 73 tuổi. Quàn tại nhà riêng (tổ 9, thôn 2, xã Lộc Châu, Bảo Lộc, Lâm Đồng). lễ nhập quan vào lúc 13h30 ngày 11-6; lễ di quan đi hỏa táng lúc 6h ngày 13-6-2020.

Các tác phẩm của ông ca ngợi tinh thần tự do, yêu đất nước. Một số tác phẩm tiêu biểu:Đã xuất bản 3 tập truyện ngắn Cát Bụi Mệt Mỏi (An Tiêm 1968), Cái Chuồng Khỉ (An Tiêm 1969), Xóm Chuồng Ngựa (An Tiêm 1971) và tập Ngồi Đợi Ngoài Hành Lang chưa in. Thơ: Bọt Nước (Mặt Đất 1966), Hoa Cô Độc (Mặt Đất 1965), Lời ru (Mặt Đất 1966), Đêm Nguyệt Động (An Tiêm 1967), Mộng Du Trên Đỉnh Mùa Xuân (An Tiêm 1972), hai tập sau là Tịnh Khẩu (An Tiêm 1973) và Du Sỹ Ca (An Tiêm 1973). Và tập cuối cùng Chút Lời Mênh Mông (Thư Viện Huệ Quang 2020)

           Về Núi

Mai tôi về núi thật mà
Dẫu cho thực tế khác xa cái cùm
Bia ôm đã mọc tùm lum
Màn đêm thô tục bao trùm thanh niên
Thế nhưng giọng lưỡi thánh hiền
Dưới trên nhất trí đang ghiền phát huy
Tiền đồ quá mức báo nguy
Đau thay quần mục cài khuy cách nào
Em ơi! Nước mắt cấm trào
Ngủ xong nhớ ngáp ào ào giùm nghe

            Về đi thôi

Về đi thôi kiếm chỗ nằm
Mõ chuông đang nện trăng rằm ngất ngư
Thiền sư ăn thịt thiền sư
Niết bàn nhiều giống chân như nhiều nòi
Tâm teo tóp trí cọc còi
Ma đang thuyết pháp quỷ đòi giảng kinh
Kìa em tịnh thủy một bình
Cửa không ai viếng cửa mình tôi thăm

          Rụng Một Trái

Trưa đứng một mình đợi ai lên
Đất trời đâu có dưới và trên
Gò cao ổi sót rụng một trái
Dòi ăn một bên ta một bên.


          Nhìn con tập lật

Nắm tay lật úp đi con

Co thân tròn trịa như hòn đá lăn
Muốn cho đời sống không cằn
Tập cho quen mất thăng bằng từ đây

          Đốt cỏ ngoài rừng


Xem cha đốt cỏ ngoài rừng

Nâng niu mẹ ẵm theo mừng không con
Có vài chiếc lá còn non
Gió xua lửa khói nổ giòn trên không
Nắng tà trãi xuống mênh mông
Bước theo chân mẹ cha bồng hư vô

Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi
Cuối chiều tà chỉ gặp cỏ hoang sơ
Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi
Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô
Chân rục rã tôi đi luồn ra núi
Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô

          Tôi Thấy Mây Rừng

một ngày đau khổ chín trong tôi
tôi đến bên cây lẳng lặng ngồi
cây thả trái sầu trên nước lắng
mặt hồ tan vỡ ánh sao trôi
thôi nhé ngàn năm em đi qua
ồn tôi cô tịch bóng trăng tà
trời sinh ra để chiều hôm đó
tôi thấy mây rừng bay rất xa

          Đêm Thu

Một đêm trăng mờ ảo

anh tìm về thăm em
phố buồn như hoang đảo
gió ngừng ru bên thềm
ánh đèn sao le lói
căn phòng sao đìu hiu
anh lặng người thầm hỏi
kiếp người sao tiêu điều
anh đi vòng sau nhà
một mình như bóng ma
giật mình anh nghe thấy
có tiếng gì bay xa
rồi đêm trăng mờ ảo
anh lại về thăm em
như lá vàng lảo đảo
anh lui về trong đêm

Và đây “Chút lời mênh mông” ông viết dịp sinh nhật tuổi 33 (1970), nửa thế kỷ sau đến với bạn đọc như lời di chúc của ông ở tuổi 83, giã từ một cuộc chơi trong cõi trời cõi người.

 “Một mai cha chết đừng chôn
Ngại chưa xuất kịp chút hồn thiết tha
Cái gì cha nói chưa ra
Biết đâu còn sót trong da máu này
Tuy nhiên đừng để lâu ngày
Đốt ngay lập tức là hay nhất đời
Con mang tro bụi xa vời
Gửi cho thiên địa chút lời mênh mông” (tr. 147)

Người ta đa phần có ý ngần ngại khi đọc thơ Nguyễn Đức Sơn vì thấy sự dâm tục quá nhiều, riêng tôi cũng thấy ngần ngại, nhưng không phải vì sự dâm tục trong thơ ông, mà ngần ngại vì mình không đủ thanh khiết để đọc. Mặc dù là một tu sĩ, tôi thấy mình cần phải thanh lọc tâm hồn mình thêm nữa để có thể bước vào thế giới thi ca của ông.

Đọc thơ Nguyễn Đức Sơn thấy tập nào cũng tục tĩu. Nguyễn Đức Sơn đã manh nha về tục, về nhục dục từ những  tập thơ đầu tiên – Bọt nước (Mặt Đất – 1965):

              Cảm thương

“Ôi tấm thân và da thịt đàn bà
Tôi rất thèm và muốn biết qua”

Đến Đêm nguyệt động (An Tiêm – 1967) thì sự tục tĩu đã lan tràn, tuy có phần còn e ấp dưới lớp hình ảnh đẹp:

                      Nhất nguyên

“Năm mười bảy có lần anh ngó thấy
Em ở truồng ngoe ngoảy cuối vườn trăng”

                      Vũng nước thánh

“Ôi một đêm bụi cỏ dáng thu người
Em chưa đái mà hồn anh đã ướt”

Đến Tịnh khẩu (An Tiêm – 1973) thì tục tĩu không còn chút e ấp nữa, nó đã trở thành chủ đề thường trực của thơ ông:

“Củi
Để chẻ
Gái
Để xẻ”

     (Tục ngữ)

Nhưng đọc những vần thơ tục của Nguyễn Đức Sơn chỉ thấy tục, không thấy cái gì khác thì đó là điều bất hạnh đối với người đọc!

Nguyễn Đức Sơn có những vần thơ rất hay và đẹp, thuộc vào hàng những bài thơ bất hủ đương thời:

         Mây trắng – Bọt nước

“Mẹ chết từ thu lá rụng vàng
Con về đất cũ vấn khăn tang
Mẹ ơi con điếng người bên mộ
Trằn trọc đêm dài con khóc than

Hai cõi bao giờ được gặp nhau
Tóc xanh dù trắng đến bạc đầu
Làm sao quên được sao quên được
Mẹ ở đâu rồi trên bể dâu”

                    Ngàn sau – Lời ru

“về đây với tiếng trăng ngàn
phiêu diêu hồn nhập giấc vàng đó em
trăm năm bóng lửng qua thềm
nhớ nhung gì buổi chiều êm biến rồi”

          Băng tuyết – Đêm nguyệt động

 “đây lứa cỏ của mùa trăng thứ nhất
đưa anh vào trong cõi mộng xa xăm
giọt tinh huyết ngàn năm sau chưa mất
rừng đông phương mờ mịt dấu em nằm”

Trịnh Thuy Thủy có nhận xét về thơ của Nguyễn Đức Sơn:

Ngôn ngữ thân xác còn có khả năng gây sốc. Nó gây sốc vì nó bị cấm kỵ. Càng bị cấm kỵ càng gợi tính tò mò của người đọc. Khả năng gây sốc chính là đề tài những cuộc tranh luận về những từ ngữ được gọi là “tục tằn” được gã làm thơ ngông liên tiếp tuôn ra làm người đọc khó chịu. Ngôn ngữ ông dùng vừa tân, vừa cổ, vừa lãng mạn, vừa dung tục. Khi trắng, khi đen, phơi bày lồ lộ, lúc mờ, lúc nhạt, thơ thẩn, lượn lờ, kỳ ảo. Có thể nói, có hai cực trong con người ông, khi chánh, khi tà, khi thô ráp, lúc dịu dàng, âu yếm. Trong hình ảnh một con thú cần cù ẩn mình trong những đêm cát bụi, con thú đực nằm chơi bên bờ cỏ đêm để thấy hồn mình ướt và xôn xao như trăng, như gió.

Thích Không Hạnh nhận xét về thơ của Nguyễn Đức Sơn như sau:

Trên nền tảng của nghệ thuật tưởng chừng không giống ai nhưng lại rất phù hợp với quy luật tự nhiên ấy đã nảy nở những vần thơ vượt xa thời đại của ông và của thời đại chúng ta. Tôi cho rằng, cùng với Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền (và có thể một vài tác giả khác nữa mà tôi chưa tiếp cận được), thơ Nguyễn Đức Sơn đã nâng tầm thơ ca Việt Nam vào những năm trước 1975 và đã tiếp cận được những nguồn mạch của thơ ca thế giới về cả tư tưởng và nghệ thuật như Tagore, Walt Whiman, Nguyễn Du hay thơ Haiku… Đây là những nhà thơ, những dòng thơ đã khẽ chạm vào đạo, một thứ đạo vừa do ánh sáng trí huệ của đạo Phật soi đường vừa do ánh sáng trực cảm thiên bẩm của chính họ mang lại. Hai thứ ánh sáng ấy có khi đồng hiện rồi chạm vào nhau, có khi cùng soi cho nhau để sáng hơn. Tôi nghĩ rằng, các nhà thơ bây giờ vẫn chưa vượt qua được các nhà thơ trên về phương diện tư tưởng và nghệ thuật thi ca. Đất nước chúng ta không công nhận, không xiển dương dòng thơ của Nguyễn Đức Sơn, Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền… là đã làm cho thơ ca Việt Nam chậm lại hơn nửa thế kỷ, và có thể còn chậm hơn nữa nếu nhận thức không rõ và không chịu thay đổi nhận thức.








Thứ Năm, 4 tháng 3, 2021

Anagarika Dharmapala, Người phục hưng Phật Giáo Ấn Độ

  


Anagārika Dharmapāla (1864-1933)

Anagārika Dharmapāla (tiếng Pali: Anagārika, sinh ngày 17 tháng 9 năm 1864 tại Sri Lanka, mất ngày- 29 tháng 4 năm 1933 tại Sarnath Ấn Độ. Ông là một nhà phục hưng Phật giáo Sri Lanka (Sinhalese) và là một nhà văn. Ông là nhà truyền giáo Phật giáo toàn cầu đầu tiên. Ông là một trong những người đóng góp sáng lập cho chủ nghĩa dân tộc Phật giáo Sinhalese bất bạo động và là nhân vật hàng đầu trong phong trào độc lập Sri Lanka chống lại sự cai trị của Anh quốc. Ông cũng là người đi tiên phong trong việc phục hưng Phật giáo ở Ấn Độ sau khi Phật giáo gần như tuyệt chủng ở đó vài thế kỷ, và ông là Phật tử đầu tiên trong thời hiện đại truyền giảng Phật pháp ở ba châu lục: Á, Bắc Mỹ và Âu Châu.

Cùng với Henry Steel Olcott và Helena Blavatsky, những người phát triển Hội Thông Thiên Học, ông là một nhà cải cách và phục hưng lớn của Phật giáo Sinhala và là một nhân vật quan trọng trong sự truyền bá Phật giáo ở phương Tây. Ông cũng truyền cảm hứng cho một phong trào quần chúng của người Dalits ở Nam Ấn, bao gồm cả người Tamil ủng hộ Phật giáo. Ở giai đoạn sau của cuộc đời, ông gia nhập hàng tu sĩ Phật giáo với tư cách là Hòa thượng Sri Devamitta Dharmapala.

Hòa thượng Sri Devamitta Dharmapala.

Đầu đời và giáo dục

Srimath Anagarika Dharmapala năm 29 tuổi (1893)

Anagarika Dharmapala sinh ngày 17 tháng 9 năm 1864 tại Matara, Ceylon con của Don Carolis Hewavitharana ở Hiththetiya, Matara và Mallika Dharmagunawardhana (con gái của Andiris Perera Dharmagunawardhana), là một trong những thương nhân giàu nhất Ceylon vào thời điểm đó. Ông tên là Don David Hewavitharane. Các em trai của ông là Tiến sĩ Charles Alwis Hewavitharana và Edmund Hewavitarne. Anh theo học trường Cao đẳng Christian, Kotte; Cao đẳng St Benedict, Kotahena; Cao đẳng S. Thomas, Mutwal và Học viện Colombo (Cao đẳng Hoàng gia)

Phục hưng Phật giáo

Năm 1875, trong thời kỳ phục hưng Phật giáo, Bà Blavatsky và Đại tá Olcott đã thành lập Hội Thông Thiên Học ở Thành phố New York. Cả hai đều rất thông cảm với những gì họ hiểu về Phật giáo, và vào năm 1880, họ đến Tích Lan, tuyên bố mình là Phật tử, Quy y và thọ Giới với một Tỳ khưu nổi tiếng người Sinhalese. Đại tá Olcott tiếp tục trở lại Ceylon và cống hiến hết mình ở đó cho sự nghiệp giáo dục Phật giáo, cuối cùng thành lập hơn 300 trường Phật học, một số trường vẫn còn tồn tại. Vào thời kỳ này, Hewavitarne đổi tên thành Anagarika Dharmapala.

Dharmapāla' có nghĩa là 'người bảo vệ giáo pháp'. 'Anagārika' trong tiếng Pāli có nghĩa là "người vô gia cư". Đó là tình trạng trung gian giữa tu sĩ và cư sĩ. Như vậy, ngài thọ tám giới (không sát sinh, trộm cắp, dâm dục, tà dâm, uống rượu say và ma túy, ăn sau buổi trưa và ăn mặc sang trọng) suốt đời. Tám giới này thường được cư sĩ Ceylonese thực hiện vào những ngày lễ. Nhưng đối với một người để lấy chúng cho cuộc sống là rất bất thường. Dharmapala là anagarika đầu tiên - tức là một người sống độc thân, làm việc toàn thời gian cho Phật giáo - trong thời hiện đại. Có vẻ như ông ấy đã thề độc thân vào năm 8 tuổi và trung thành với nó cả đời. Mặc dù ông ta mặc một chiếc áo choàng màu vàng, nó không phải theo kiểu truyền thống của Tỳ khưu, và ông ta không cạo đầu. Ông ta cảm thấy rằng việc tuân thủ tất cả các quy tắc Vinaya sẽ cản trở công việc của ông ta, đặc biệt là khi ông ta bay vòng quanh thế giới. Cả chức tước và chức vụ đều không quan trọng, nhưng với vai trò này, ông “là hình mẫu cho hoạt động của giáo dân trong Phật giáo hiện đại”. Ông được coi là một vị bồ tát ở Sri Lanka.

Chuyến đi đến Bodh-Gaya của ông được truyền cảm hứng từ chuyến thăm năm 1885 của Ngài Edwin Arnold, tác giả cuốn The Light of Asia (Ánh Sáng Á Châu), người đã sớm bắt đầu ủng hộ việc cải tạo địa điểm và đưa nó trở lại với sự chăm sóc của Phật giáo.  Arnold được Weligama Sri Sumangala Thera hướng tới nỗ lực này.

Theo lời mời của Paul Carus, ông trở lại Hoa Kỳ vào năm 1896, và một lần nữa vào năm 1902–04, nơi ông đã đi du lịch và giảng dạy rộng rãi.

Dharmapala cuối cùng đã đoạn tuyệt với Olcott và những người theo thuyết Thông thiên học vì lập trường của Olcott về tôn giáo phổ quát. "Một trong những yếu tố quan trọng khiến ông ta bác bỏ Thông Thiên Học tập trung vào vấn đề phổ quát này; cái giá của việc Phật giáo bị đồng hóa vào một mô hình chân lý phi Phật giáo cuối cùng là quá cao đối với ông ta”. Dharmapala nói rằng “Thông Thiên Học chỉ là  củng cố sự tôn thờ Krishna”. "Nói rằng tất cả các tôn giáo có một nền tảng chung, cho thấy sự thiếu hiểu biết của người nói; riêng Phật Pháp là tối cao đối với Phật giáo"

Tượng Angarika Dharamapalan ở Sarnath

Tại Sarnath năm 1933, ngài được thọ giới Tỳ kheo, và ngài qua đời tại Sarnath vào tháng 12 năm đó, thọ 68 tuổi.

Đóng góp tôn giáo

Một lá thư do Srimath Dharmapala viết vào ngày 23 tháng 6 năm 1902 cho một người bạn ở Nhật Bản.

Dharmapala lúc tuổi trẻ đã giúp đỡ Đại tá Olcott trong công việc của mình, đặc biệt bằng cách đóng vai trò là người phiên dịch. Dharmapala cũng trở nên khá thân thiết với Bà Blavatsky, người đã khuyên ông nên học tiếng Pāli và làm việc vì lợi ích nhân loại - đó là những gì ông đã làm. Đó là thời điểm ông đổi tên thành Dharmapala (có nghĩa là "Hộ pháp").

Năm 1891, Anagarika Dharmapala đang hành hương đến Đền Mahabodhi mới được trùng tu gần đây, nơi Đức Phật Siddhartha Gautama - đạt được giác ngộ tại Bodh Gaya, Ấn Độ. Tại đây, ông đã trải qua một cú sốc khi phát hiện ra ngôi đền nằm trong tay của một thầy tu Saivite, tượng Phật đã biến thành một biểu tượng của đạo Hindu và các Phật tử bị cấm thờ cúng. Kết quả là, ông ta bắt đầu một phong trào kích động.

Hội Maha Bodhi Society tại Colombo được thành lập vào năm 1891 nhưng các văn phòng của nó đã sớm được chuyển đến Calcutta vào năm sau đó, năm 1892. Một trong những mục tiêu chính của nó là khôi phục sự kiểm soát của Phật giáo đối với Đền Mahabodhi ở Bodh Gaya, trưởng của bốn Phật giáo cổ đại. thánh địa. Để thực hiện điều này, Dharmapala đã khởi kiện các tư tế Bà la môn, những người đã nắm quyền kiểm soát địa điểm này trong nhiều thế kỷ. Sau một cuộc đấu tranh kéo dài, điều này chỉ thành công sau khi Ấn Độ độc lập  năm1947 và mười sáu năm sau cái chết của Dharmapala vào năm 1933, với việc khôi phục một phần địa điểm cho Hội Maha Bodhi Society quản lý vào năm 1949. Sau đó ngôi đền. Bodhi Gaya được giao cho một ủy ban bao gồm số lượng người theo đạo Hindu và đạo Phật bằng nhau và người chủ tịch là chánh quyền địa phương.  Một bức tượng của Anagarika Dharmapala được dựng ở Quảng trường Đại học gần Kolkata Maha Bodhi Society.

Anagarika trên một con tem năm 2014 của Ấn Độ

Các trung tâm của Hội Maha Bodhi được thành lập ở nhiều thành phố của Ấn Độ, và điều này đã có tác dụng nâng cao nhận thức của người Ấn Độ về Phật giáo. Hầu hết các cuộc cải đạo đã được thực hiện trong số những người có học thức, nhưng cũng trong một số người thuộc đẳng cấp thấp ở miền nam.

Do những nỗ lực của Dharmapala, địa điểm của Phật Nhập Niết Bàn tại Kushinagar một lần nữa trở thành một điểm thu hút lớn đối với các tín đồ Phật giáo, giống như trong nhiều thế kỷ trước. Phong trào Mahabodhi vào những năm 1890 tổ chức Quy tắc Hồi giáo ở Ấn Độ chịu trách nhiệm về sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ. Anagarika Dharmapala đã không ngần ngại đổ lỗi chính cho sự suy tàn của Phật giáo ở Ấn Độ trước ngưỡng cửa của sự cuồng tín của người Hồi giáo.

Năm 1893, Dharmapala được mời tham dự Nghị viện Tôn giáo Thế giới tại Chicago với tư cách là đại diện của "Phật giáo Nam truyền" - thuật ngữ được áp dụng vào thời điểm đó cho Theravada. Ở đó, ông đã gặp Swami Vivekananda đã    đối đãi rất tốt với ông . Giống như Swami Vivekananda, ông đã thành công rực rỡ tại Nghị viện và nhận được sự chú ý của giới truyền thông. Vào đầu những năm 30 tuổi, ông đã là một nhân vật toàn cầu, tiếp tục đi du lịch, thuyết trình và thiết lập các Viharas (chùa) trên khắp thế giới trong suốt bốn mươi năm sau đó. Đồng thời, ông tập trung vào việc thành lập các trường học và bệnh viện ở Tích Lan và xây dựng các đền thờ và tu viện ở Ấn Độ.

Trong số những ngôi chùa quan trọng nhất mà ông đã xây dựng là một ngôi chùa ở Sarnath, nơi Đức Phật đã giảng dạy lần đầu tiên. Khi trở về Ấn Độ qua Hawaii, ông gặp Mary E. Foster, hậu duệ của Vua Kamehameha, người có vấn đề về tình cảm. Dharmapala an ủi cô bằng các kỹ thuật Phật giáo; Đổi lại, cô đã tặng cho ông ta một khoản tài trợ khổng lồ hơn một triệu rupee (hơn 2,7 triệu đô la năm 2010, nhưng giá trị hơn nhiều do chi phí lao động thấp ở Ấn Độ). Năm 1897, ông cải đạo cho Miranda de Souza Canavarro, người được coi là "Chị Sangitta" đến thành lập một trường học ở Tích Lan.

Nhật ký đồ sộ của Dharmapala đã được xuất bản, và ông cũng viết một số hồi ký.

Dharmapala, khoa học và Phật giáo Tin lành

Thuật ngữ 'Phật giáo Tin lành', do học giả Gananath Obeyesekere đặt ra, thường được áp dụng cho hình thức Phật giáo của Dharmapala. Nó là Tin lành theo hai cách. Đầu tiên, nó bị ảnh hưởng bởi các lý tưởng Tin lành như tự do khỏi các tổ chức tôn giáo, tự do lương tâm và tập trung vào trải nghiệm nội tâm của cá nhân. Thứ hai, bản thân nó là một sự phản kháng chống lại những tuyên bố về tính ưu việt của Cơ đốc giáo, chủ nghĩa thực dân và công việc truyền giáo của Cơ đốc giáo nhằm làm suy yếu Phật giáo. “Đặc điểm nổi bật của nó là tầm quan trọng mà nó gán cho giáo dân”. Nó nảy sinh giữa tầng lớp trung lưu mới, biết chữ, tập trung ở Colombo.

Thuật ngữ 'chủ nghĩa hiện đại Phật giáo' được sử dụng để mô tả các hình thức Phật giáo phù hợp với Thế giới Hiện đại, thường bị ảnh hưởng bởi tư duy hiện đại, và thường được các Phật tử thích nghi như một sự phản bác lại những tuyên bố về tính ưu việt của Châu Âu hoặc Cơ đốc giáo. Những người theo chủ nghĩa hiện đại Phật giáo nhấn mạnh những khía cạnh nhất định của Phật giáo truyền thống, trong khi không nhấn mạnh những khía cạnh khác. Một số đặc điểm của chủ nghĩa hiện đại Phật giáo là: tầm quan trọng của giáo dân như chống lại tăng đoàn; tính hợp lý và không nhấn mạnh các khía cạnh siêu nhiên và thần thoại; nhất quán với (và dự đoán của) khoa học hiện đại; nhấn mạnh vào tính tự phát, sáng tạo và trực giác; tính dân chủ, chống chế; nhấn mạnh vào thiền định trên các hành động sùng kính và nghi lễ.

Dharmapala là một ví dụ xuất sắc của một nhà Phật giáo hiện đại, và có lẽ là một ví dụ điển hình của Phật giáo Tin lành. Ông đặc biệt quan tâm đến việc trình bày Phật giáo phù hợp với khoa học, đặc biệt là thuyết tiến hóa.

Khảo sát các bài viết

Hầu hết các tác phẩm của Dharmapala được thu thập trong Trở về Chính nghĩa: Tuyển tập các bài phát biểu, tiểu luận và thư của Anagarika Dharmapala. (Biên tập do Ananda Guruge. Colombo: Bộ Giáo dục và Văn hóa, 1965).

Nợ thế gian với Đức Phật (1893)

Anagarika Dharmapala tại Nghị viện của các Tôn giáo Thế giới.

Từ trái sang phải: Virchand Gandhi, Anagarika Dharmapala, Swami Vivekananda và G. Bonet Maury.

Bài báo này đã được đọc trước một phiên họp đông đúc của Nghị viện các Tôn giáo Thế giới ở Chicago, ngày 18 tháng 9 năm 1893. Ở giai đoạn đầu của sự nghiệp, Dharmapala đã quan tâm đến việc làm cho Phật giáo trở nên thích hợp với khán giả phương Tây của mình. Bài nói chuyện này có đầy đủ các tài liệu tham khảo về khoa học, Khai sáng Châu Âu và Cơ đốc giáo. Trong khi trình bày Phật giáo bằng những thuật ngữ quen thuộc này, ông cũng gợi ý rằng nó vượt trội hơn bất kỳ triết lý nào của phương Tây. Ngoài ra, ông còn dành thời gian đáng kể để thảo luận về chính thể Phật giáo lý tưởng dưới thời Asoka (vua A Dục) và đạo đức của Đức Phật đối với cư sĩ.

Chủ nghĩa lạc quan mang tính xây dựng của Phật giáo (1915)

Phật giáo thường được mô tả ở phương Tây, đặc biệt là bởi các nhà truyền giáo Thiên chúa giáo, là bi quan, hư vô và thụ động. Một trong những mối quan tâm chính của Dharmapala là chống lại những tuyên bố như vậy, và mối quan tâm này đặc biệt rõ ràng trong bài luận này.

Thông điệp của Đức Phật (1925)

Trong giai đoạn sau của sự nghiệp, giọng điệu chống lại Cơ đốc giáo dữ dội của Dharmapala càng thể hiện rõ. Dharmapala phải được hiểu trong bối cảnh người Anh đô hộ Ceylon và sự hiện diện của các nhà truyền giáo Thiên chúa giáo ở đó. Công việc này là một ví dụ điển hình về “Phật giáo Tin lành,” như đã mô tả ở trên.

Tiến hóa từ quan điểm của Phật giáo (1926)

Thuyết tiến hóa của Darwin là tiên tiến của khoa học trong suốt cuộc đời của Dharmapala. Là một phần trong nỗ lực chứng tỏ rằng Phật giáo phù hợp với khoa học hiện đại, ông đặc biệt quan tâm đến vấn đề tiến hóa.

Những người đóng góp cho Chủ nghĩa dân tộc Phật giáo Sinhalese

Dharmapala là một trong những người đóng góp chính cho sự phục hưng Phật giáo vào thế kỷ 19, hướng dẫn thành lập các công trình Phật giáo cơ bản để phù hợp với các phương tiện truyền thông (school learning, YMBA, vv) và phong trào độc lập của thế kỷ 20. DeVotta mô tả đặc điểm hùng biện của mình có 4 điểm chính: "(I) Khen ngợi: Đối với Phật giáo và văn hóa Sinhalese; (II) Đổ lỗi: Đối với đế quốc Anh, Những người làm việc cho họ bao gồm tất cả những người theo đạo Thiên chúa; (III) Sợ hãi: Phật giáo ở Sri Lanka đã bị đe dọa tuyệt đối; và (IV) Hy vọng: Cho một Phật giáo Sinhalese trẻ hóa sự thăng tiến ”. Ông đã minh họa điểm đầu tiên trong một bài phát biểu trước công chúng:

Hòn đảo tươi sáng, xinh đẹp này đã được người Sinhalese biến thành Thiên đường trước khi sự hủy diệt của nó do những kẻ phá hoại man rợ mang lại. Người dân của nó không biết về sự bất liên kết ... Cơ đốc giáo và đa thần giáo (tức là Ấn Độ giáo) chịu trách nhiệm về các tập tục thô tục giết động vật, trộm cắp, ăn nói dối trá, nói dối và say rượu ... Những con người cổ đại, lịch sử, tinh tế, dưới sự cai trị của tà giáo độc ác, được giới thiệu do các quản lý người Anh, hiện đang giảm dần.

Tóm lại, lý do của Dharmapala để bác bỏ chủ nghĩa đế quốc Anh không phải là chính trị hay kinh tế. Họ theo đạo: trên hết, quốc gia Sinhala là quốc gia lưu giữ lịch sử của Phật giáo.

Di sản

Năm 2014, Ấn Độ và Sri Lanka đã phát hành tem bưu chính để đánh dấu kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Dharmapala. Ở Colombo, một con đường đã được đặt tên để vinh danh ông là "Anagarika Dharmapala Mawatha" (Phố Hộ pháp Angarika).

Bộ phim tiểu sử, Anagarika Dharmapala Srimathano, về lịch sử cuộc đời của Dharamapala được phát hành vào năm 2014, Palitha Silva đóng vai Anagarika.

Dân số Ấn độ hiện nay là 1,389,043,356 người, sốngười theo đạo Phật chiếm 0,7% tính ra là khoảng 972,330 người. Số người theo đạo Hindu tức Ấn Độ Giáo là 79,8%, họ không được phép cải đạo. Nên đạo Phật khó phát triển tại đây.

(Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

866404032021