Mấy hôm nay, sau ngày sinh nhật thứ 81 của tôi, đặc biệt năm nay lại trùng với ngày sinh của Thái tử Tất Đạt Đa, tôi được bạn bè và nhiều cựu học sinh gửi đến chúc mừng, gợi cho tôi nhớ đến những chuyện xa xưa đã trên nửa thế kỷ.
Trước tiên
tôi nhớ đến những ngày ở trong quân trường Thủ Đức rơi nhằm dịp Tết Mậu Thân, bị
cấm trại liên miên nên không thể đi phép, có lúc nằm luôn ở trạm gác 13, nhìn
ra xa lộ Sàigòn – Biên Hòa thấy xe chạy nhớ nhà lòng buồn khôn tả. Có hôm ngoài
xa lộ đụng nhau súng nổ, đạn bay vèo vèo, tưởng là VC phục kích xe Mỹ, sau nghe
lại xe của Đại úy Mẫn chồng của Thanh Nga đụng độ với toán tuần tiểu.
Sau khi ra
Trường lại tiếp tục học ở Trường Quân Cụ tại Gò Vấp, gần ngã Năm chuồng chó, vì
nơi đó là ngã năm lại có đơn vị quân khuyển, trên con đường nầy đầu kia là ngã
ba Chú Ía, ở giữa là bệnh viện Cộng Hòa, tuy là con đường ở ngoại ô Sàigòn,
nhưng nổi danh trên toàn quốc.
Sau khi ra
Trường Quân Cụ, tôi lại chọn vùng IV, trong khi có 1 chỗ là một đơn vị Đại Đội
Quân Cụ, đồn trú sát ngã năm, bên cạnh chuồng chó. Chọn xong bạn bè ai cũng tiếc
cho tôi đã bỏ mất một chỗ tốt, nếu chọn Đại Đội đó tôi được ở gần nhà với vợ
con ngay tại thủ đô Sàigòn, ngược lại tôi đã chọn vùng IV là Miền Tây.
Thế rồi tôi
được phân bổ về Đại Đội 21 Quân Cụ, tức là đại đội yểm trợ cho Sư Đoàn 21 Bộ
Binh có bản doanh đặt tại Bạc Liêu, còn Đại Đội đồn trú tại thị xã Sóc Trăng gần
rạp chiếu bóng Hòa An, cạnh chùa Năm Ông, tôi đến nhằm lúc đơn vị di chuyển đến
Trung tâm huấn luyện nghĩa quân trên đường đi Bãi Xào, chưa đến Đài Phát Thanh
Ba Xuyên, cách không xa chùa Dơi theo đường chim bay.
Tôi đồn trú
nơi đơn vị nầy là Tiểu Đoàn 21 Tiếp Vận, trong đó có Đại Đội Bảo Toàn, gồm có Đại
Đội Quân Cụ và các đơn vị Quân Nhu, Quân Vận, Truyền Tin. Tôi ở đây chưa được 1
tháng thì được phân bổ làm Trung Đội Trưởng Trung Đội Sửa Chữa, đồn trú cạnh
Trung Đoàn 32 của Sư Doàn 21 để yểm trợ đơn vị nầy.
Mặc dù là
khoảng hè năm 1969, nhưng tình hình vẫn chưa được an ninh, khi tôi đi từ Cần
Thơ đến Sóc Trăng phải chờ và đi theo một đoàn có hộ tống (convoy) và từ Sóc
Trăng đi Cà Mau, tôi cũng phải tháp tùng theo đoàn hộ tống.
Đến Cà Mau
đơn vị tôi có doanh trại ở trên sân quần vợt của Ty Tiểu Học, ở trước mặt Ty,
cách nhau một con đường, bên cạnh đơn vị tôi là một đơn vị của Mỹ, thỉnh thoảng
có người Việt trộng tuổi đi vào đó, lính của đơn vị tôi cho tôi biết đó là những
người dân “bán tin” cho Mỹ. Cạnh Ty Tiểu Học là bản doanh của Trung Đoàn 32,
tôi được biết Trung đoàn trưởng là người cùng quê với tôi, anh Trung Đội Trưởng,
người tiền nhiệm có đưa tôi sang thăm xã giao Trung Tá Bông, gặp ông Bông tôi
không hề cho ông ta biết chúng tôi là người cùng quê.
Không xa nơi
tôi đồn trú là Ty Cảnh Sát, anh Trung Úy trưởng phòng hành chánh là bạn của tôi
lúc ở Sàigòn, anh ta đã về đây có vợ con, đôi lần tôi có đến thăm anh ta tại trại
gia binh ở trong ty, nhưng tôi trông thấy cảnh những người bị bắt, giam ở Ty
leo nheo, lóc nhóc với đám con nít, nên tôi chỉ đến thăm anh ta vài lần mà
thôi, đôi khi anh ta lấy xe cảnh sát chở tôi đi ăn kem hay uống cà phê.
Ở tại chợ Cà
Mau cách đơn vị tôi có 2 ngã tư cùng một con đường, có một cửa hàng điểm tâm của
người Hoa, là tiệm nước Đông Viên nơi đây luôn nhộn nhịp thực khách ăn sáng với
hủ tiếu, mì, bánh bao, xíu mại, dò chéo quãi … Sáng nào chúng tôi cũng kéo nhau
ra đây uống cà phê. Đặc biệt ở đây có một cậu “phổ ky”, tuổi chừng 15, 16 thích
kết thân với mấy anh lính của đơn vị tôi, cứ mỗi Thứ Ba khoảng 10 giờ sáng, anh
phổ ky nầy mang vào trại chúng tôi một thau “xíu quách”, kèm theo một chai
Whicky-Cô, là rượu đế pha với Coca Cola. Tôi không hiểu cậu phổ ky nầy được chi
mà chìu lính của đơn vị tôi như vậy ? Tôi chỉ biết những người làm nơi quán đó,
mỗi người đều được một phần xíu quách trong ngày nhất định của tuần lễ.
Có một chị
ngoài 50, hút thuốc Ruby, nên các anh lính của đơn vị gọi chị ấy là bà Hai
Ruby, thỉnh thoảng vào buổi tối ghé vào đơn vị đánh bài với mấy anh lính, đến
khuya không còn xe Lam về, chị phải ngủ nhờ, nằm chung với anh Trung đội phó
trong chiếc xe sửa chữa.
Tôi ở đây được
1 tháng thì đơn vị được cải tổ, một anh xung phong nhận thay tôi, để tôi trở về
đơn vị tại Sóc Trăng, giữ chức Trung Đội Trưởng Hậu Cứ, ngày tôi trở về đơn vị
cũng phải chờ mấy hôm mới có đoàn hộ tống để lên đường.
Lúc ở Cà Mau
đơn vị tôi không có xe jeep, nên chúng tôi mượn xe của Trung Đoàn 32, tôi ra
phi trường Cà Mau tập lái mấy hôm cho nhuần nhuyển. Khi về lại Sóc Trăng anh em
Quân Vận làm cho tôi cái bằng lái xe, mặc dù Sĩ Quan không được phép lái xe, vì
có tài xế lái, nhưng tôi được cấp 1 chiếc A2 hay là M151 và anh tài xế Linh.
Về đây có
anh Nô chuyên viên kỹ thuật của rạp chiếu bóng Hòa An, thích đi chơi và đi uống
bia với chúng tôi. Tôi nhớ có một buổi tối đã gần 9 giờ, phố xá vắng chúng tôi
buồn, nên rủ nhau vào hồ nước ngọt bắt “Bò lạc”, trong nầy có một Tinh Xá, thỉnh
thoảng vẫn có người đi hóng mát, tối đó chẳng có bóng ma nào, lúc chúng tôi
quay xe ra về, dọc đường gặp con rùa bằng cái tô, anh em bảo nhau thôi thì bắt
rùa về nấu cháo ăn, tôi nhớ thỉnh thoảng anh em có đãi chúng tôi món rùa nấu
thuốc bắc, nhưng chưa hề nếm được rùa nấu cháo. Chúng tôi bắt con rùa bỏ lên
xe, chạy về nhà bên vợ của Nô ở gần Bãi Sào để nấu cháo, ăn đêm.
Nấu cháo
xong, Nô dọn chén, đủa lên bàn ăn rồi bưng nồi cháo rùa đặt giữa bàn, giọng bí
mật:
- Mời quý bạn
cùng thưởng thức món để đời của chúng ta.
Đã gần khuya, bụng cũng đói, cảm thấy mùi cháo
lại đói hơn.
Ai cũng bưng
chén cháo lên húp, nhưng cháo là cháo trắng không mùi vị mà thịt rùa là thịt rùa,
hai thứ đó không san sẻ nhau chút gì, cho nên người ta thường nói “Húp cháo rùa”,
lúc đó chúng tôi mới hiểu câu tục ngữ “Húp cháo rùa”. Theo tôi rất nhiều người
nghe nói: “Húp cháo rùa”, nhưng đêm đó tôi mới được thực tế.
Tôi ở đây được
2 tháng thì có giấy biệt phái về dạy học lại. Lâu rồi tôi ít khi gặp lại những
bạn đồng ngũ. Một lần cách nay chừng 10, 15 năm một hôm đi Viếng chùa Sư nữ
Linh Phong Cổ Tự ở Đà Lạt, may mắn được gặp lại anh Bửu Cầu, đồng đội của tôi ở
Trường Bộ Binh Thủ Đức, anh Bửu Cầu ở đó vì Sư cô Trụ Trì là người Hoàng tộc cùng
họ hàng với anh. Gần đây, về Việt Nam gặp lại anh Trần Minh Nhật cũng là bạn cùng
khóa ở Trường Bộ Binh và Quân Cụ, Nhật nay ở West Virginia, thỉnh thoảng gọi điện
hỏi thăm nhau và hẹn gặp lại ở Việt Nam.
Những ngày tôi
ở Cà Mau, Sóc Trăng nhớ lại như mới đó, vậy mà đã trên nửa thế kỷ trôi qua, với
biết bao đắng cay của những ngày tù tội, lại hiểu thêm: ”Không có gì quý hơn độc
lập, tự do”. Cứ mỗi lần nhớ đến câu nầy lòng buồn ứa nước mắt.
866403062022