Năm nào đó về
Việt Nam, giáo sư Nguyễn Văn Hai, tiến sĩ Toán Đại học Sorbonne, Paris, Phó viện
Trưởng Viện Đại Học Huế, giáo sư Đại học Kentucky, nhờ tôi đi viếng thăm Hòa
Thượng Trí Quang, lúc đó ngài đang ở Quảng Hương Già Lam, tôi nhớ trước kia ngài
ở trong chùa Ấn Quang, trong căn phòng ở dãi Tây Lang, có hôm tôi đi chùa lên
Chánh điện lễ Phật, lúc bước ra hành lang để quan sát chùa thì gặp ngài đang đứng
nhìn qua Chánh điện, giữa ngài và tôi cách nhau vài thước, nhưng từ trước cho đến
lúc gặp ngài, tôi chưa hề tiếp xúc với ngài lần nào, nên lần đó chỉ chấp tay xá
ngài mà thôi.
Lần nầy nhà
tôi và tôi đến Quảng Hương Già Lam, viếng thăm thầy Tuệ Sỹ trước, bởi vì lần nào
đến đây tôi cũng ghé thăm Thầy, hay nói khác hơn là đi thăm Thầy nên phải đến
Quảng Hương Già Lam, có khi đến Thầy đang hầu mõ, chắc chủ lễ là Hòa Thượng trụ
trì, có lần đến gặp chị Xuân Hòa phu nhân của Nguyễn Khắc Từ, có lần đến gặp Vũ
Thế Ngọc đồng môn ở Văn Khoa Vạn Hạnh, anh ở California về Việt Nam đến thăm Thầy.
Vì ngài Trí
Quang không biết tôi, nên tôi phải nhờ thị giả báo cho ngài biết giáo sư Nguyễn
Văn Hai nhờ tôi đến thăm ngài. Thị giả báo rồi hướng dẫn tôi lên lầu, tịnh thất
của ngài là phòng sau cùng của dãi Đông Lang, còn Thầy Tuệ Sỹ cũng ở trên lầu
nhưng dãi Tây lang phía trước.
Khi vào phòng
của ngài, ngài chỉ cho chúng tôi ngồi ở hàng ghế sát cửa sổ phía Chánh điện cũng
có thể nhìn thấy tháp của Hòa Thượng Trí Thủ, còn ngài ngồi ở cái bàn chênh chếch
trước mặt chúng tôi phía tay phải, trên bàn là mâm cơm ngài đang dùng bữa, trên
mâm ấy có trên mười cái thố bằng cái bát cơm chắc là đựng thức ăn. Bên tay phải
của ngài cũng là tay phải của chúng tôi là một bàn thờ Phật, ảnh Phật khá lớn,
có bát hương, có hoa đăng, chuông mõ và kệ để kinh đặt trên tấm thảm dưới nền gạch.
Ngài dừng bữa, trong khi tôi trình bày mục đích thăm ngài để vấn an sức khỏe của
giáo sư Hai, ngài cho biết sức khỏe cũng bình thường, hỏi tôi tu theo pháp môn
nào để ngài dạy cho pháp hành trì.
Sau gần một
giờ viếng thăm và được ngài ban pháp nhũ, chúng tôi chào ngài ra về. Tôi có xin
chụp tấm ảnh, ngài bảo thôi khỏi, vì ngài đang dùng bữa y áo không được chỉnh tề.
Năm nay khi đi
chiêm bái Phật tích ở Ấn Độ, mấy cháu mời chúng tôi sau khi về Việt Nam, vài tuần
sau đi Huế viếng thăm Thiền sư Nhất Hạnh đang tịnh dưỡng ở chùa Từ Hiếu, Huế. Tôi
nhớ lúc còn ở Mỹ, có đọc tin thấy Sư cô Chân Không cũng đang ở Từ Hiếu, nên muốn
nhân dịp viếng thăm Thiền sư Nhất Hạnh, tiện thể thăm Sư cô Chân Không, vì từ năm
1966 chia tay với chị Cao Ngọc Phượng, chị Nhất Chi Mai, cho đến nay tôi chưa gặp
lại Sư cô, nhưng ngày chúng tôi ra Từ Hiếu, Sư cô đã đi về Pháp.
Trong đoàn đi
Chiêm Bái Phật tích Ấn Độ chỉ có 5 người chúng tôi, ra Huế cũng có đủ 5 người,
lại ghép thêm vài người bạn khác, kẻ ở Sàigòn, người ở Úc, người ở Canada. Khi
về, đã có 2 người về Sàigòn từ đêm trước, một người vào Đà Nẵng rồi mới về, còn
lại chúng tôi buổi sáng đi tham quan Vỹ Dạ, cầu ngói Thanh Toàn, buổi chiều nghỉ
ngơi để ra phi trường lúc 16:30. Đến khoảng 15 giờ, tôi nghĩ sao mình không đi
thăm lại Từ Đàm. Nhất là nhà tôi chưa biết chùa Từ Đàm, dù đã có viếng Tường Vân,
Từ Vân, Từ Hiếu, Diệu Đế, Linh Mụ. Thế là nhà tôi và tôi vội vàng lấy taxi đi đến
Từ Đàm.
Đến Từ Đàm, không hỏi nhưng có người lạ tự chỉ cho chúng tôi biết phòng của Hòa Thượng Trí Quang, ở trên lầu dãi
Đông lang. Thế là chúng tôi lên lầu để viếng ngài. Tôi nghĩ tôi không ai biết,
nên nhờ người báo cho thầy thị giả, trước kia khi Hòa Thượng ở Quảng Hương Già Lam, giáo sư Nguyễn
Văn Hai nhờ tôi đến viếng thăm Hòa Thượng, nay nhân tiện ra đây xin được viếng
thăm Hòa Thượng. Thị giả ra hỏi tôi có phải giáo sư Nguyền Văn Hai là Hồng Dương
không ? Tôi trả lời là đúng. Thế là Thầy thị giả mời tôi vào thăm, nhưng cho biết
Hòa Thượng bị bệnh mất ngủ, nay ngài đang ngủ, thị giả không dám đánh thức ngài.
Tôi xin chụp ảnh, thị giả cho biết không nên. Khi vào thăm ngài đang nằm ngủ, dắp
chiếc chăn bông khắp cả người, chỉ chừa cái đầu trùm kín chiếc mũ ni. Ngài nằm
nghiêng, chỉ có đầu và bàn tay ló ra ngoài cái chăn bông. Nhà tôi và tôi cùng lễ
ngài, nhưng thị giả ra dấu chỉ xá mà thôi sau khi tôi đã lạy được một lạy.
Nay nghe tin
ngài viên tịch, đọc được vài dòng tiểu sử người ta viết sơ lược về ngài như
sau:
Hòa Thượng Trí Quang là một trong những
nhà lãnh đạo Phật giáo gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử chiến tranh Việt
Nam. Mãi cho tới ngày nay, nhiều thập niên sau khi chiến tranh kết thúc, báo
chí, dư luận quốc tế, trí thức trong và ngoài nước vẫn chưa hết thắc mắc, không
biết Hòa Thượng Thích Trí Quang theo quốc gia hay cộng sản; là cao tăng dấn
thân vì đạo, bị cộng sản Bắc Việt lợi dụng, hay là ‘CIA chiến lược’ như tố cáo
của các cán bộ cộng sản, hoặc ‘cộng sản nằm vùng’ hoạt động theo chỉ đạo từ Hà
nội. Những thắc mắc đó vẫn là đề tài tranh cãi không dứt giữa các nhà khoa
bảng, các nhà báo, cũng như trong giới tình báo Mỹ.
Nhưng điều mà dường như mọi người đều
đồng ý là Hòa Thượng Thích Trí Quang là một lãnh đạo Phật giáo đầy quyền lực
vào lúc mà sức mạnh của giáo hội Phật Giáo lên cao nhất trong những năm đầu và
giữa thập niên 1960. Lúc đó, Time, tạp chí có uy tín của Mỹ, đã đăng ảnh của
Hòa Thượng trên trang bìa với dòng chữ “người đã làm lung lay nước Mỹ”.
Theo quyển Tiểu Truyện Tự Ghi của Hòa Thượng Thích Trí Quang, thì ngài sinh
quán của tại làng Diêm Điền thuộc khu vực phía tây sông Nhật Lệ, tỉnh Quảng
Bình.
Tên thật là Phạm Quang, Thích Trí Quang
sinh ngày 21-12-1923 tại Quảng Bình, xuất gia năm 1936, lúc 13 tuổi. Ông là đệ
tử của Hòa Thượng Thích Trí Độ, Chủ tịch Hội Phật Giáo Cứu Quốc. Tham gia hoạt
động của Hội Phật giáo này của Việt Minh, ông bị Pháp bắt giam năm 1946. Năm
1947, khi được thả, ông theo Việt Minh vào chiến khu chống Pháp. Nhưng sau đó
ông bỏ Việt Minh, trở lại con đường tu hành cho tới năm 1963, ông ‘cảm thấy có
trách nhiệm phải đứng lên bảo vệ Phật tử và Phật giáo’ sau sự kiện “Pháp Nạn
Phật giáo’, khi 8 thanh niên Phật tử bị bắn chết vào đêm 8/5/1963 ở chân cầu
Trường Tiền.
Làn sóng phản đối lan rộng, lên tới cao
điểm khi xảy ra vụ tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức ngày 11-6-1963, làm
thế giới bàng hoàng xúc động, tên tuổi của Thượng tọa Thích Trí Quang lan sang
Hoa Kỳ và thế giới.
Năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất (GHPGVNTN) ra đời, đưa Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết làm Đệ Nhất Tăng
Thống, Thượng Tọa Thích Trí Quang là Chánh Thư ký Viện Tăng Thống, trong khi
Thượng Tọa Thích Tâm Châu là Viện trưởng Viện Hóa Đạo.
Năm 1967, GHPGVNTN bị phân hóa vì bất đồng chánh kiến, nên Thượng Tọa Thích Tâm Châu từ chức Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, Thượng Tọa Thích Trí Quang từ chức Chánh Thư ký Viện Tăng Thống, nhưng vẫn không hàn gắn được nội bộ, dẫn đến việc chia ra 2 khối Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự.
Các học giả cánh hữu cho rằng Thích Trí
Quang có nhiều khả năng là cán bộ cộng sản hoạt động dưới sự chỉ đạo của Hà
Nội. Còn các học giả cánh tả lại cho rằng ông là một Thủ lãnh tôn giáo đấu
tranh bất bạo động cho hòa bình và để bảo vệ Phật giáo.
Nhà nghiên cứu James McAllister của Đại
học Cambridge, trong bài tham luận “Thích Trí Quang và Chiến Tranh Việt Nam”
(Only Religions Count in Vietnam: Thich Tri Quang and the Vietnam War) được Nhà
Xuất Bản Modern Asian Studies ấn hành năm 2007. Bài tham luận viết:
“Nói tóm lại trong quá trình nghiên cứu
của tôi, tôi không tìm ra được bất cứ quan chức Mỹ nào có thể nhận diện được,
chưa nói tới bất cứ quan chức cấp cao nào, nghĩ Thích Trí Quang là người cộng
sản hay có cảm tình với cộng sản.”
Từ sau năm 1975, Đại lão Hòa thượng Trí Quang vẫn ở tại chùa Ấn Quang, rồi tu viện Quảng Hương Già Lam (Tp. HCM) độc cư, chuyên tâm hành trì, viết sách, dịch và chú giải kinh, luật, luận…
Năm 2013, ở tuổi 91, Đại lão Hòa thượng
đã trở về thăm quê nhà sau hơn 60 năm xa cách và lưu lại chốn cũ là chùa Từ
Đàm, tiếp tục việc dịch thuật kinh điển và chuyên tâm hành trì cho tới ngày
viên tịch.
Ngài cũng đã về thăm lại nơi chôn nhau
cắt rốn, nơi được Bổn sư thế độ xuất gia, thăm lại mộ phần của song thân ở
Quảng Bình.
Sắc tứ Phổ Minh Tự tại Quảng Bình
Được biết, Đại lão Hòa thượng được Bổn sư
phú pháp, Thiền tông Lâm Tế, Thiền hệ Đạo Mân Quốc sư, lưu xuất từ Tổ sư Nguyên
Thiều, với pháp danh Nhật Quang, pháp tự Trí Hải, pháp húy Thiền Minh. Đạo hiệu
Trí Quang là do Giáo thọ sư của ngài là Đại sư Trí Độ ban."
Hòa Thượng Thích Trí Quang, một nhân vật quan
trọng trong Phật Giáo Việt Nam cận đại, đặc biệt giai đoạn chiến tranh Việt
Nam, viên tịch lúc 21 giờ 45 phút (giờ Việt Nam), ngày 8 tháng 11, 2019,
theo thông báo của Hòa Thượng Thích Hải Ấn, trụ trì chùa Từ
Đàm:
Thầy Tuệ Sỹ và chư Tăng đi nhiễu kim quan Hòa
Thượng Thích Trí Quang
Trông thấy ảnh ngài Tuệ Sỹ đi nhiễu kim quan của Hòa Thượng Trí Quang, gợi
tôi nhớ lại cũng đã lâu rồi, không được viếng thăm ngài, dù thầy Tuệ Sỹ và tôi
chỉ cách nhau có một cái thang lầu. Bây giờ tôi mới nghĩ ra chắc Thầy và tôi hết
duyên, chớ thầy thị giả Hạnh Viên không thể có quyết định nầy.
Theo huyết thống, Hòa Thượng Thích Trí Quang là cậu ruột của ngài Tuệ Sỹ.
Theo huyết thống, Hòa Thượng Thích Trí Quang là cậu ruột của ngài Tuệ Sỹ.
866410112019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét