Thứ Ba, 8 tháng 10, 2019

Kỷ niệm còn đó


                      Ðể tặng các Trưởng Ðức Châu Vũ Ngọc Khuê, Diệu Hiền Nguyễn Thị Thảo, Quảng Pháp Trần Minh Triết, Phúc Thiện Trần Ðình Hùng.
Và các bạn Ðặng Quang Sước, Nguyễn Kim Liên, Nguyễn Ðình Nam, Bùi Thế San
Nguyễn Thị Tâm, Phan Thái Hà, Lê Viết Ða
Phạm Minh Tâm, Ðào Hiếu Thảo, Ðặng Ðình Khiết
PT
Tôi chưa già nhưng cũng không còn đủ trẻ để bay nhảy như xưa, có những giờ phút ngồi yên lặng, chuyện xa xưa gợi lại nhiều kỷ niệm, tôi muốn ghi nó ra, bạn trẻ nào thích thì đọc cho vui, dù người Pháp có câu ngạn ngữ “cái TÔI đáng ghét”, nếu không có cái TÔI ấy thì mọi việc đều không, cho nên đừng chấp PHÁP, chấp NGÃ thì mọi khổ đau không có mặt.

Tôi phải bắt đầu từ đâu ? Chắc là phải đi từ đầu. Vậy để tôi kể cho bạn nghe. Năm 1956, anh Nguyễn Quang Vui học ở Trường Quốc Gia Âm Nhạc, tôi học ở Trường Kỹ Thật Phan Ðình Phùng chi nhánh của Trường Kỹ Thuật Cao Thắng, cả hai Trường đều có chung một cơ sở ở số 2 Phạm Ðăng Hưng Dakao, địa điểm nầy cách Ðài Phát Thanh Sàigòn chỉ chừng 50 thước !

Tâm Trí Nguyễn Quang Vui (1938-20--)

Chúng tôi cùng tá túc trong trường, nên quen biết nhau, khoảng gần cuối năm 1957, anh Vui đã giới thiệu tôi đi sinh hoạt Gia Ðình Phật Tử Giác Minh ở tại chùa Kim Cương Phú Nhuận, lúc đó anh Tâm Lạc Nguyễn Văn Thục làm Liên Ðoàn Trưởng.

Vậy người thứ nhất tôi quen biết là Huynh Trưởng Tâm Trí Nguyễn Quang Vui, sau anh là Ðoàn Trưởng của tôi, đến khi anh làm Liên Ðoàn Trưởng Gia Ðình Phật Tử Giác Minh, anh đã cất nhắc tôi làm Huynh Trưởng, năm đó tôi mới 18 tuổi !

Anh Vui có tài thuyết phục người khác, có đầu óc lãnh đạo và tổ chức nhưng anh có khuyết điểm là hay bỏ dỡ nữa chừng các chương trình, nếu anh gặp trở ngại. Anh là một Huynh Trưởng đã tổ chức khóa Huấn Luyện Huynh Trưởng đầu tiên cho Gia Ðình Phật Tử thuộc Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt Tại Miền Nam, khóa Tuệ Tạng (năm 1960), cũng chính anh đã góp phần hình thành Ban Hướng Dẫn đầu tiên của GÐPT thuộc GHTGBVTMN (năm 1961).

Ðể phát triển mạnh các Gia Ðình và cũng để đào tạo những Huynh Trưởng vững chải, anh đã thành lập Trường Ðào Tạo Huynh Trưởng A Dật Ða, anh đã tổ chức khảo hạch toàn bộ Huynh Trưởng thuộc GHTGBVTMN để xác định khả năng từng Huynh Trưởng. Có một việc mà anh thất bại là không thể thành lập được Huynh Trưởng Ðoàn - Một tổ chức đoàn ngũ và kiện toàn Huynh Trưởng.

Là Liên Ðoàn Trưởng, anh Tâm Lạc Nguyễn Văn Thục đã tổ chức để kiện toàn Gia Ðình Phật Tử Giác Minh thuở đó, anh lập Ðoàn Nam Phật Tử La Hầu La, tổ chức khóa huấn luyện Ðội Chúng Trưởng Ca Diếp I, tôi đã được anh đào tạo trong khóa nầy, tôi đã học nơi anh từng động tác, khi Chủ lễ, khi tập họp chào cờ, khi đưa Gia Ðình đi cắm trại.

Tâm Lạc Nguyễn Văn Thục (1927-2007)

Anh Thục sanh quán ở Huế, dáng người gầy, mang kiếng cận, anh là nhà giáo cho nên mỗi công việc làm của anh đều trở nên gương mẫu, mô phạm, đời Huynh Trưởng của tôi chịu ảnh hưởng nơi anh khá sâu đậm. Sau khi anh thôi làn Liên Ðoàn Trưởng, tôi vẫn đến thăm anh từ căn nhà ở đường Trương Tấn Bửu đến căn nhà ở đường Trương Minh Giảng, phía trong Ðại Học Vạn Hạnh, lúc nào anh cũng chạy chiếc xe Lambretta màu trắng.

Năm 1961, trong đám tang của Hòa Thượng Khánh Anh, Thượng Thủ Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc, tôi có hân hạnh chạy chiếc Lambro do hảng Vinaco cho mượn với 50 chiếc Lambretta, anh Thục đứng giữa thủ đại kỳ Phật Giáo, bên trái anh Thục là anh Nguyễn Hữu Huỳnh, bên phải anh Thục là anh Tống Hồ Cầm - Ba Huynh Trưởng đàn anh, đã xây dựng nên Gia Ðình Phật Tử Nam Việt - Tôi chạy nối tiếp theo hai hàng 50 Huynh Trưởng mặc đồng phục lái Lambretta, chạy dẫn đường xe tang từ chùa Ấn Quang vào An Dưỡng Ðịa Phú Lâm.

Ngày tôi đến chào từ giả anh để ra nước ngoài, anh kể cho tôi nghe chuyện bị công an thành phố Hồ Chí Minh, hạch hỏi anh về vụ tổ chức Hiệp kỵ ở ÐàLạt vào ngày Vía Ðức Quán Thế Âm (19-6 Canh Ngọ), anh và tôi đã cùng dự lễ ấy. Kể xong anh yêu cầu tôi ra về, để tránh bị công an theo dõi cả hai anh em. Anh Thục quy y với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết.

Tôi biết anh Tâm Bửu Tống Hồ Cầm lần đầu tiên, có lẽ đó là lần anh dự lễ chung thất của cố Hoà Thượng Thích Tuệ Tạng, Thượng Thủ Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc, được tổ chức tại chùa Giác Minh vào buổi tối năm 1959, thuở đó anh làm tư chức ở một nhà in nơi đường Bà Lê Chân gần chợ Tân Ðịnh, nhà anh ở khu Bà Hạt ( ? ), tôi có đến thăm anh tại nhà ấy hai lần vào ban đêm, cả hai lần đều được anh tiếp chuyện trên gác, sau nầy nghe nói anh đã dời về khu Ngã tư Bảy Hiền.

Tâm Bửu Tống Hồ Cầm (1918-20--), lễ mừng Thượng thọ 100 tuổi.

Anh Cầm có con trai là Tống Hồ Thanh Kỳ, sinh hoạt ở Ðội Sen Nâu, Ðội Nam Phật Tử chủ lực của Gia Ðình Phật Tử Chánh Ðạo, Kỳ có lẽ băng tuổi tôi, cho nên trong tình đạo, tình Lam, anh Cầm vẫn đối đãi thân mật với tôi, trong đó dĩ nhiên có xen lẫn tình cảm tôi như là những người bạn của Kỳ. Nghe nói Kỳ ở San Jose.

Ngày tôi đi học tập cải tạo trở về, tôi có đến thăm anh và anh Cường ở Toà soạn báo Giác Ngộ số 35 đường Nguyễn Ðình Chiểu (cạnh Bộ Thông Tin cũ), anh Cầm nói cho tôi nghe về Phật Giáo và chủ nghĩa Mác Lê Nin, còn anh Cường bảo tôi viết bài đăng báo Giác Ngộ, tôi không hiểu anh Cường có đọc bài nào của tôi viết chưa ? Hay là anh chỉ nói để khuyến khích và tìm người ủng hộ tờ báo.

Nguyên Hùng Võ Đình Cường (1918-2008)

Ngày tôi chào tạm biệt anh Cầm cũng ở tòa soạn báo Giác Ngộ, anh kéo hộc tủ, lấy ra tấm ảnh màu chụp cảnh tiệc tất niên do các anh em Gia Ðình Chánh Ðạo tổ chức, tôi nhìn thấy có anh và có cả anh Từ, anh Tú, anh Ðoàn Văn Lộc, chị Hoa (vợ anh Chiểu) và nhiều người khác, anh ghi cho tôi đôi dòng kỷ niệm ở mặt sau tấm ảnh. Anh là một thi sĩ, thơ của anh đăng trên các tạp chí Phật Giáo với bút hiệu Tống Anh Nghị, tôi lấy làm tiếc không có bài thơ nào trong tủ sách để trích cho bạn thưởng thức.

Ngồi từ trái: Phan Tùng, Xuân Hòa, anh Cầm, anh Tú, Đoàn Lộc, Hải, Lộc

Tôi nhớ vào Tết năm Mậu Tuất, Thầy Chánh Tiến còn làm Gia Trưởng Gia Ðình Phật Tử Giác Minh, Thầy chủ trương đặc san NHỊP CẦU, do Gia Ðình Phật Tử Giác Minh phát hành, đặc san nầy anh Thục có viết một bài nhận định về các Gia Ðình Phật Tử Nam Việt, Thầy Chính Tiến bảo tôi viết một bài phỏng vấn anh Võ Ðình Cường, đã nghe tên tuổi của anh, nhưng tôi nào có biết anh, Thầy Chánh Tiến viết cho tôi lá thư giới thiệu và bảo tôi chiều tối Thứ Tư vào chùa Ấn Quang, anh có lớp dạy chư Tăng ở đó.


Tôi về nhà viết mấy câu hỏi vào một tờ giấy đôi kẻ vuông, mỗi câu hỏi tôi chừa trống cho câu trả lời, đến chiều tối Thứ Tư tôi vào chùa Ấn Quang, hỏi thăm vào lớp anh Cường vừa mới bắt đầu, tôi đưa thư và tờ giấy ghi nội dung phỏng vấn, anh nhận lấy và ghi cho tôi địa chỉ nhà anh, hẹn 2 hôm sau đến đó lấy bài phỏng vấn.

Ðó là lần đầu tiên tôi gặp anh Cường, người anh cao, anh hơi hô, mắt anh dường như lé kim, giọng nói anh to và rõ ràng, anh mặc áo trắng tay dài, quần dài đen, ăn mặc rất tươm tất, nhưng không thắt cà vạt, cho đến sau nầy, tôi vẫn luôn thấy anh mặc áo tay dài, trừ khi mặc đồng phục.

Như đã hẹn, tôi đã đến nhà anh ở trong con hẻm đường Hồng Thập Tự, trước mặt Bộ Y Tế, để lấy bài phỏng vấn, bài ấy về sau Thầy Chính Tiến không đăng vào đặc san Nhịp Cầu. Nhà anh Cường sau anh dời về Lý Thái Tổ gầm hiệu kem Cẩm Bình, anh ở trên, bên dưới là nhà in, tòa soạn báo Hải Triều Âm đặt ở đây, sau anh dời về ở một con hẻm chênh chếch cửa bệnh Viện Bình Dân, bên cạnh là nhà anh Lương Hoàng Chuẩn, nay anh đã dời nhà sang một hẻm khác cũng trên đường Phan Thanh Giản cũ, gần đường Nguyễn Thượng Hiền, cách hẻm nhà cũ chừng 200 thước.

Nói đến anh Nguyên Hùng Võ Ðình Cường, người ta còn tôn xưng anh là anh Cả của Gia Ðình Phật Tử, anh là một nhà văn thấm nhuần tư tưởng Phật Giáo, tác phẩm nổi tiếng nhất của anh là Ánh Ðạo Vàng, ngoài ra còn có những đoản văn trong tập Thử Hòa Ðiệu Sống, anh cũng có viết kịch như Suối Từ, Mùa Gặt Ác, tiểu thuyết đầu tay của anh là Những Cập Kính Màu, sau nầy anh có dịch truyện Cô Gái Bất Khuất của Somerset Maugham, cả hai tiểu thuyết nầy anh đều có ghi : ‘‘Mến tặng Huỳnh Ái Tông, Tác giả‘’.


Khi Gia Ðình Phật Tử vừa mới thống nhất tổ chức, bác Nguyễn Ðức Lợi Ðại Diện GÐPT Miền Vĩnh Nghiêm, chỉ định tôi giữ chức Thư Ký Ban Ðại Diện. Thư Ký và Thủ Quỹ không nằm trong Ban Hướng Dẫn Trung Ương, nhưng những phiên họp tam cá nguyệt của Ban Hướng Dẫn Trung Ương có Ðại Diện Miền đi họp, Bác Lợi không đi, cử tôi Ðại diện cho Bác, nhờ đó tôi đi họp với BHD Trung Ương nên biết thêm vài anh chị khác.

Ngày tôi chào tạm biệt anh Cường, sáng sớm hôm đó anh tiếp tôi mỗi người một chén trà, đứng ngoài sân chuyện trò, anh có nhắn : - Tông ra đến nơi, có gặp anh chị em cho anh nhắn lời hỏi thăm và chúc sức khỏe . Không hiểu sao, anh lại hỏi tôi trước khi chia tay : - Bây giờ Cung Thị Lan Phương ở đâu ? Tôi trả lời, chị ấy ở đường Nguyễn Thiện Thuật.

Năm 1959, tôi làm Liên Ðoàn Trưởng Gia Ðình Phật Tử Giác Minh, Thầy Chính Tiến bật đèn xanh cho tôi xúc tiến việc liên hệ với Gia Ðình Phật Tử Minh Tâm, Thầy bảo tôi liên lạc với anh Trần Trung Du, Ðoàn Trưởng Tráng Ðoàn Bạch Ðằng ở Sàigòn, anh Du người gầy, cao, nước da trắng, nhà anh là hiệu sách Hiền Lương trên đường Phan Thanh Giản, gần vườn Bà Lớn, anh từng giúp phần chuyên môn cho Gia Ðình Phật Tử ở Hà Nội.

Sau nầy khi Bác sĩ Phan Huy Quát sắp sửa làm Thủ Tướng, anh Du có đưa cho tôi tấm danh thiếp của ông Phan Huy Quát và bảo ông ta muốn gặp tôi, tôi được ông tiếp trong văn phòng Tổng Trưởng Y Tế ở đường Hồng Thập Tự, hình như Bác sĩ Quát thay đổi chủ trương vào giờ chót, nên cuộc hội kiến ấy không có trao đổi chút gì về chánh trị.

Sau khi rời Giác Minh, sang Minh Tâm, nhằm lúc Ðoàn Huynh Trưởng A Dục Thành lập, nên các Huynh Trưởng Gia Ðình Phật Tử Minh Tâm, trong đó có cả tôi gia nhập Ðoàn nầy, nhờ vậy tôi mới biết anh Phan Cảnh Tuân và anh Nguyễn Hữu Huỳnh.

Nhật Minh Nguyễn Hữu Huỳnh (19-- - 2004) và Hồng Liên Phan Cảnh Tuân (1926-2011)

Anh Phan Cảnh Tuân lúc đó hình như Sĩ quan cấp Thiếu Tá, vóc dáng anh cao lớn đúng là tướng tá nhà binh, da mặt anh bị bệnh nên chỗ trắng chỗ nám, anh làm Ðoàn Trưởng một thời gian rồi theo đơn vị Sư Ðoàn 7 ở hẳn Mỹ Tho, Thầy Cố Vấn Giáo Lý Thích Thiện Châu đi Ấn Ðộ du học, Ðoàn A Dục dần dần ngưng sinh hoạt.

Còn anh Ðoàn Phó Nhật Minh Nguyễn Hữu Huỳnh người không cao, cử động của anh chắc nịch, anh vốn là Huynh Trưởng Hướng Ðạo, nhà ở đường Lê Lai. Do lần Ðoàn Huynh Trưởng A Dục đi tham quan Ðà Lạt vào dịp Noel 1960, anh Huỳnh có cho con trai đi theo, con anh là Nguyễn Hữu Ðức lúc đó chừng 6 tuổi, anh Huỳnh bận điều khiển Ðoàn nên Ðức theo tôi, từ đó em rất mến tôi, thỉnh thoảng tôi hay đến nhà anh Huỳnh chơi với em.

Các anh Hổ, Biên và tôi với em Nguyễn Hữu Hồng Đức, ảnh chụp trước chợ ĐàLạt năm 1960

Vì lẽ đó nên anh chị Huỳnh có nhiều cảm tình với tôi, năm 1964 tôi định đi du học, giờ chót người anh ở Pháp trả lời không có tiền, anh Huỳnh mấy lần bảo với tôi :  - Em cứ đi du học ! Tiền bạc đừng lo, có anh chị giúp cho. Biết anh Huỳnh rất thật tình đối với tôi, nhưng tôi nghĩ mang ơn người thì dễ nhưng trả ơn mới là điều khó, tôi cám ơn và từ chối sự giúp đỡ của anh.

Năm 1963, anh Huỳnh tích cực tham gia các hoạt động của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo, anh sát cánh với Thầy Giác Ðức, anh được cử châm ngọn lửa hỏa thiêu nhục thân Bồ Tát Thích Quảng Ðức, thời gian đó, anh bị bắt vào Tổng Nha Cảnh Sát mấy lần, cho nên cách mạng thành công, anh tích cực vận động quyên góp tiểu thương ở chợ Cầu Ông Lãnh trái cây, bánh mì chở đi ủy lạo binh sĩ. Anh quy y với Minh Trực Thiền Sư, viện chủ tổ đình Phật Bửu (cạnh Tam Tông Miếu) ở đường Cao Thắng.

Năm 1961, tham dự Ðại Hội Huynh Trưởng kỳ IV tại chùa Xá Lợi, tôi có dịp quen biết anh Như Tâm Nguyễn Khắc Từ. Anh Từ nhỏ con, thoạt trông anh có vẻ nghiêm khắc nhưng nói chuyện với chúng tôi, anh hay đùa hơn là nghiêm túc, nhờ chuyến đi của Phái Ðoàn Huynh Trưởng Thủ Ðô ra thăm Huế đầu năm 1964, anh Từ với Tuệ Linh, chị Hồng Loan và chúng tôi càng thân hơn, nên năm 1965, Ban Hướng Dẫn Trung Ương lên Ðà Lạt họp, Tuệ Linh đang ở đó, đã đưa anh Từ và tôi đi ăn uống nơi nhà hàng Thượng Hải, thưởng trăng ở nhà thủy tạ trên hồ Xuân Hương, kỷ niệm một đêm trăng sáng, sương mù, cảnh vật mờ ảo, đêm ấy thật khó quên.

Ảnh chụp trước thềm chùa Linh Sơn năm 1990, anh Từ mang kính đen.
Như Tâm Nguyễn Khắc Từ (1928-1993)

Năm 1991, ngày tôi sắp sửa lên đường, tôi đến chào tạm biệt anh, tôi thấy anh đã yếu đi nhiều, anh nhắn tôi 2 việc :

- Tông qua bên ấy nói với Thu Nhi và Hoài Chân, Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Ðình Phật Tử Việt Nam phong cho hai chị ấy cấp Tấn, thâm niên kể từ ngày các chị tham gia vào Ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Ðình Phật Tử Việt Nam tại Hoa Kỳ, nói thêm rằng trong hoàn cảnh nầy, không thể làm một quyết định như bình thường. Chuyện thứ hai là tiền vẫn còn đủ để trùng tu đài Lục Hòa ở Trại Trường Gia Ðình Phật Tử Việt Nam, Thu Nhi không cần gửi thêm tiền về nữa.

Qua đến Mỹ nghe anh bệnh, Ái Hữu GÐPT Vĩnh Nghiêm có gửi cho anh một chút quà, tôi nghĩ nó đã sưởi ấm tấm lòng của anh. Nghe tin anh mất, Ái Hữu Vĩnh Nghiêm có nhờ Vĩnh Nghiêm bên nhà đi phúng điếu anh. Chị Hồng Loan xúc động, có làm một bài thơ KHÓC ANH, anh có để lại cho Gia Ðình Phật Tử tác phẩm Gia Trưởng.

Những năm ở Sàigòn vào khoảng 1961 hay 1962, anh Tâm Khuyến Ngô Văn Mão có sinh hoạt với Ðoàn A Dật Ða, anh giảng dạy, tham gia trại, tham gia tiệc trà . . . Anh Mão người cao ráo, nước da đen, anh sinh hoạt rất trẻ trung, không quá nghiêm nghị, nên khóa sinh A Dật Ða rất có cảm tình với anh.

Tâm Khuyến Ngô Văn Mão (1923-1993)

Một lần tham gia tiệc trà của Ðoàn A Dật Ða, tổ chức tại chùa Giác Minh, để giúp vui, anh Mão cầm cái ly thủy tinh trong lòng bàn tay, anh nói : Anh chị em nhìn xem, tôi bóp cái ly, miệng méo nè. Tay anh bóp mạnh cái ly, nhưng ai cũng thấy anh chẳng làm gì cho miệng ly méo cả. Anh hỏi : Anh chị em thấy thế nào, ai cũng trả lời miệng ly chẳng có méo, anh giải thích : Tôi bảo miệng méo, không ai chịu nhìn cái miệng tôi nó méo nè !. Lúc ấy mọi người nhìn cái miệng anh méo, mới vở lẽ ra nên cùng phát lên cười.

Sau năm 1963, tôi không gặp lại anh Mão, tôi cũng không biết anh ở đâu, qua đến Mỹ được tin anh mất ở Nha Trang, kể ra tôi cũng vô tình với anh.

Chị Tâm Chánh Hoàng Thị Kim Cúc, tôi biết chị qua Ðại hội Huynh Trưởng năm 1961 tại Xá Lợi, sau Ðại Hội Huynh Trưởng ở Trường Gia Long năm 1964, chị ở thêm mấy tuần tại Sàigòn, để tổ chức Khóa Huấn Luyện Huynh Trưởng A Dục đầu tiên dành riêng cho ngành Nữ, khóa nầy tổ chức tại chùa Giác Hải của Ni cô Tịnh Nguyện.

Từ trái: Chị X, chị Y, chị Tâm Chánh Hoàng Thị Kim Cúc (1913-1989), chị Đỗ Thị Kim Oanh, chị Phạm Thị Hoài Chân. Trại huấn luyện A DỤC tại Sàigòn, 1964

Tôi nhớ vào dịp Hè năm 1965, có người cho tôi hay chị Cúc từ Huế vào Sàigòn, theo lời người ấy chỉ dẫn, tôi đến căn nhà trước mặt Bộ Y Tế để thăm chị, tôi đến nơi chị lại chuẩn bị đi thăm người quen, tôi thăm hỏi chị rồi nhân tiện đưa chị đến nhà quen ở cư xá Nông Nghiệp, cư xá nầy nằm trên đường Trương Minh Giảng gần tới đường Bùi Thị Xuân.

Chị Cúc nhỏ người, tóc chị luôn luôn thắt bính rồi vấn lên đầu, mặc áo dài trắng, tôi thấy chị luôn luôn vui vẻ nhưng nghiêm nghị, bởi vì chị là một nhà giáo, nói đúng hơn chị là Tổng Giám Thị Trường Ðồng Khánh Huế. Tuổi thanh xuân chắc chị đẹp nên Hàn Mạc Tử được nguồn xúc cảm, đã sáng tác bài Ðây Thôn Vĩ Dạ:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Gió theo lối gió, mây đường mây
Giòng nước buồn thiu, hoa bắp lay,
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó ?

Có chở trăng về kịp tối nay ?

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo anh trắng quá nhìn không ra.
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà.

Chị mất năm 1989 tuần thất thứ ba làm tại chùa Giác Hải, để ghi nhớ nơi đó chị đã tổ chức Trại A Dục có Ni cô Tịnh Nguyện Trụ Trì chùa tham dự, tuần thứ tư tại chùa Hải Quang ở Trung Việt Nghĩa Trang (khu ông Tạ), tuần thứ năm tổ chức tại chùa Vĩnh Nghiêm, nơi chị từng dự Hiệp kỵ GÐPT Vĩnh Nghiêm, năm 1984.

Còn chị Tâm Huệ Ðoàn Thị Kim Cúc, năm 1960 tôi làm Liên Ðoàn Trưởng Gia Ðình Phật Tử Giác Minh, trước đó khi anh Vui làm Liên Ðoàn Trưởng, có nhờ anh Liên Phú và chị Cung Thị Lan Phương, Huynh Trưởng Gia Ðình Chánh Ðạo sang làm Ðoàn Trưởng Thiếu Niên và Thiếu Nữ. Sau đó anh Phú nghỉ, anh Vui mới đề cử tôi thay thế. Anh Liên Phú trước năm 1963 đã đi hỏi vợ, sau năm 1963 anh hồi hôn rồi đi tu, nay là Thượng Tọa Chơn Kim, trú trì chùa Tường Vân ở Ðơn Dương, ÐàLạt.

Khi anh Vui nghỉ thì chị Lan Phương cũng nghỉ, tôi phải phụ trách Ðoàn Thiếu Nữ, do tình trạng thiếu Huynh Trưởng như vậy, nên Thầy Chính Tiến mới mời chị Ðoàn Thị Kim Cúc làm Ðoàn Trưởng Ðoàn Thiếu Nữ, ở Huế thuở còn trẻ chị có sinh hoạt Hướng Ðạo, còn GÐPT vẫn là mới lạ đối với chị cho nên tôi phải làm bí thư cho chị, ngay cả sau nầy khi chị là Ủy viên Nữ Phật Tử của Ban Hướng Dẫn Trung Ương (Nhiệm kỳ 1964-1967).

Chị Tâm Huệ Đoàn Thị Kim Cúc (1924-1998)

Chồng chị, anh Hồ Văn Tập Phó tỉnh trưởng hành chánh tỉnh Long An, anh mất năm 1958, để lại cho chị 5 con thơ dại, một tay chị nuôi dạy các em nên người, có ở trong gia đình chị mới thấy chị đảm đang và khéo dạy con, các em lễ phép, ngoan ngoãn, từ khi còn nhỏ những công việc nhà chị phân công, các em làm rất chu đáo, nên nhà chị luôn luôn sạch sẻ và ngăn nắp, đúng như ngạn ngữ : Nhà sạch thì mát, bát sạch thì ngon.

Trong tổ chức Gia Ðình Phật Tử, chị là Huynh Trưởng có năng lực, chị đảm nhiệm những chức vụ Ðoàn Trưởng, Gia Trưởng, Phó Trưởng Ban, Thủ quỹ, Ủy viên từ đơn vị Gia Ðình cho đến Ban Hướng Dẫn Trung Ương.

Chị xem tôi như một đứa em ruột, ngày chị mất tôi thực sự thấy mình cô đơn, những ngày tôi đã sống trong gia đình chị, từ Trương Tấn Bửu sang Bạch Ðằng rồi trở về sau Tổng Vụ Thanh Niên, có những bửa ăn đạm bạc nhưng rất ngon miệng, nhất là đầm ấm không khí gia đình, tôi thích nhất là món bún bò Huế do chị hay các em Trâm, Phượng nấu.

Cho đến năm 1964, tôi mới biết anh Thông Phương Ðặng Văn Khuê, anh là một trong những người thành lập Gia Ðình Phật Tử ở đất Bắc. Ðến năm 1964, anh tham gia Ban Hướng Dẫn Vĩnh Nghiêm, anh người tầm thước trung bình, nước da ngâm đen, hút thuốc Bastos hơi nhiều, dạo đó anh hay chạy chiếc Mobylette vàng.

Thông Phương Đặng Văn Khuê (19-- - 1996)

Trông anh có vẽ nghiêm nghị nhưng anh tôi thấy anh thường cười, anh làm việc nghiêm túc, đi họp thường xuyên trong những buổi họp định kỳ hay có thư mời. Gần anh Khuê mới thấy tánh tình anh rất dễ mến. Những anh chị khác cùng thời với anh Khuê như anh Lê Vinh, Trần Thanh Hiệp và chị Tuệ mai, tôi chỉ nghe tên nhưng chưa hề được biết, có thể những ngày tháng sinh hoạt ở Gia Ðình Minh Tâm, tôi có gặp các anh chị nhưng không ai giới thiệu nên không biết.

Trong tài liệu về Gia Ðình Phật Tử miền Bắc, anh Khuê có nhắc tới những người ở Huế ra Hà Nội học, đã tiếp tay xây dựng Gia Ðình Phật Tử miền Bắc như anh Lữ Hồ, Phạm Mạnh Cương, Minh Tuyền. Họ đều là những nhà giáo.


Minh Tuyền tôi có biết, là Giáo sư Việt Văn đã dạy tôi từ lớp Ðệ Tứ đến Ðệ Nhị ở Trường Cao Thắng, sau nầy ông ta đổi về dạy ở Trường Võ Bị ÐàLạt. Tên ông ta, tất cả học sinh Cao Thắng đều ghi trong Học Bạ là Lê Nguyễn Bá Tước, anh Hựu lại cho biết tên ông ta là Lê Nguyên Bá Tước. Ông ta và người anh Minh Thành, đều là nhiếp ảnh gia tên tuổi, cùng thời với Nguyễn Cao Ðàm, Trần Cao Lĩnh, Bàng Bá Lân . . . , tôi có học một lớp nghệ thuật nhiếp ảnh tại trường Cao Thắng do Minh Tuyền phụ trách, các nhiếp ảnh gia tên tuổi kia đã giảng dạy.

Anh Phạm Mạnh Cương, tôi nghe tên, biết tiếng anh dạy Triết ở Trung Học Petrus Ký, anh có chương trình Văn nghệ trên Truyền Hình Việt Nam trước 1975, tôi có gặp anh một lần tại chùa Phước Hòa năm 1960, hôm đó là Phật Ðản hay Vu Lan, anh đến chùa dùng cơm chay với một số vị khác, phòng ăn ở dãi Ðông lang, nằm kế Văn phòng Ban Hướng Dẫn và Ðoàn Quán Gia Ðình Phật Tử Minh Tâm.

Riêng anh Lữ Hồ tên thật là Nguyễn Minh Hiền, tôi có nhiều kỷ niệm hơn, anh còn có năng khiếu về hội họa, huy hiệu của những Ðại Hội Huynh Trưởng 1961, 1964 đều do anh vẽ, anh trình bày bìa sách và anh cũng có vẽ tranh. Tôi không nhớ lần đầu tiên tôi gặp anh ở đâu, nhưng sau nầy thường gặp nhất là các phiên họp của Ban Hướng Dẫn Trung Ương từ năm 1964-1966.

Da mặt anh không tốt, anh luôn luôn hút ống điếu. Anh thường cười nói vui đùa hơn là nghiêm túc. Khoảng năm 1978, vào một buổi tối, anh mặc một bộ quần áo nâu sòng, ngồi một mình ở một chiếc bàn con, tại chợ 20 (Góc ngã tư Phan Thanh Giản, Cao Thắng), anh uống cà phê đá, tôi đi bộ ngang qua đó, anh gọi tôi lại bảo tôi ngồi uống cà phê với anh.

Anh cho tôi biết, cả gia đình anh đã đi nước ngoài, anh còn kẹt ở lại, sống với đứa con nuôi, đời sống anh cũng bình thường, đại khái là như thế. Tôi nói cho anh biết, tôi có đi thăm anh Cường và anh Cầm ở báo Giác Ngộ, hai anh ấy bảo tôi viết bài đăng báo. Anh Lữ Hồ nói : - Anh Cầm đỏ còn hơn những người đỏ, các anh ấy bảo cậu viết bài nhưng nghe ta đừng có viết nghe, báo ấy nhuộm đỏ đó. Thật ra tôi có viết một bài, định sẽ đưa Giác Ngộ đăng, nhưng theo lời khuyên anh Lữ Hồ, tôi cất bài ấy lại.

Một lần nữa, tôi vừa mới chia tay với một người bạn tại quán cà phê đó, tôi còn ngồi nán lại uống cho xong ly nước trà. Anh Lữ Hồ chạy xe ngang qua, thấy tôi nên anh dừng xe lại, anh dựng chiếc Mini Lambretta màu xanh nước biển bên cạnh bàn nước, rồi anh gọi ly cà phê đá, ngồi nói chuyện với tôi về thời sự, về quan điểm chị Cường với thời cuộc.

Sau nầy thỉnh thoảng tôi vẫn gặp anh ở khu Bàn Cờ, một hôm sáng sớm tôi đưa nhà tôi đi chợ Bàn Cờ, tôi ngồi tại xe đợi, tôi bỗng gặp anh Lữ Hồ ăn mặc rất lịch sự, áo sơ mi cụt tay trắng, bỏ trong quần màu vàng nhạt, đi giày nâu bóng láng, bên cạnh anh là một cô gái tuổi chừng 20 mặc áo dài trắng, cả hai thong thả đi vào trong chợ. Nhìn thấy tôi, anh Lữ Hồ miệng ngậm điếu thuốc, cười rất tươi, anh không nói thêm tiếng nào khi đi ngang qua tôi, tôi đoán anh đang đi với cô con nuôi, anh đã có nói với tôi một lần trước đây.

Chừng một năm sau, trước khi ra nước ngoài tôi mới hay tin anh Lữ Hồ đã mất, cho tới nay tôi vẫn không biết anh mất vì bệnh gì, bởi vì khi tôi gặp anh lần chót, trông anh rất khoẻ mạnh và yêu đời.

Khi gặp lại anh Ðỗ Ðình Kỳ ở Maryland, tôi có nhắc đến anh Lữ Hồ, anh Kỳ cho biết anh Lữ Hồ không có con nuôi nào cả. Nhắc đến anh Kỳ, tôi nhớ khoảng Ðại Hội Huynh Trưởng năm 1961, Trúc Hải Phan Văn Bưởi nói cho tôi biết, tôi không thể nào ngờ anh Kỳ là Ðoàn Trưởng khi Trúc Hải còn là Oanh Vũ.

Đỗ Đình Kỳ (19-- - 20--)

Ðến năm 1964, anh Kỳ được bầu là Ủy viên Xã Hội và HÐTN của Ban Hướng Dẫn Trung Ương, lúc ấy anh là Trung Úy ở Biệt Khu Thủ Ðô, anh đi họp đôi khi mặc quân phục, anh hút ống điếu, anh lại đẹp trai, trông tướng anh rất hào hoa phong nhã, sau nầy anh thành hôn với Minh Châu, em của chị Tuệ Tâm, nên anh trở thành rễ nhà Vĩnh Nghiêm cũng như Huỳnh Văn An vậy.

Năm 1993, tôi sang vùng Hoa Thịnh Ðốn thăm chị Cúc và các anh chị Vĩnh Nghiêm, Khiết mời anh tới chơi, anh bỏ cả ngày để dự bửa cơm tại nhà Khiết, sau đó chờ khách ra về hết mới đưa chị Cúc và tôi đi chợ EDEN, rồi đưa về nhà anh ở Maryland để thăm chị Thanh Minh mới sang định cư và Minh Châu, nhưng Minh Châu lại đi vắng. Tôi rất cảm tình với anh về việc nầy.

Tôi nhớ rõ, lần đầu tiên tôi biết anh Tâm Huệ Cao Chánh Hựu trong Ðại Hội Huynh Trưởng năm 1961 tại chùa Xá Lợi. Lúc đó anh dễ bị chú ý vì anh thường hay bắt ghế, ngồi ở hành lang phía văn phòng Hội Phật Học, anh ít nói lại trông rất hiền, vì lẽ đó mà tôi biết anh. Năm 1964, anh làm Trưởng ban Tổ chức Ðại Hội, tôi được đề cử làm Ủy viên, Tiểu ban trật tự và Tạp dịch.


Tâm Huệ Cao Chánh Hựu (1930-2009)

Về trật tự phải lo canh gát toàn trường Gia Long, nơi Ðại Biểu họp, ăn, ở. Hình như một đại biểu nào đó đi họp xách theo một cái Radios Transitor, thuở đó là hạng nhất rồi, anh ta bị mất cấp, đãy là một khuyết điểm của tôi.

Còn về Tạp vụ, ngày nay ở chốn hải ngoại nầy còn có Phạm Minh Tâm, Ðào Hiếu Thảo nhớ chớ chẳng thể nào quên, anh em các Gia Ðình họ Giác như Giác Minh, Giác Hoa, Giác Trí đã kề vai khiêng những cái bàn ăn bằng Granito nặng không thể tưởng, để bàn ra ngoài sân, lấy chỗ làm Hội Trường, đến khi Ðại Hội bế mạc, anh em rã rời tan hàng sớm, tôi phải báo cho anh Hựu tự lo liệu, anh Hựu cũng dễ dãi cười với tôi, rồi phải xin tiền để lo dọn dẹp.

Hồi đó Oanh Vũ Cồ thân thiết với anh, tôi những tưởng anh ghé vai làm rễ Vĩnh Nghiêm rồi, hóa ra không phải vậy họ bạn vẫn là bạn.

Năm 1980 ( ? ), nghe tin anh đi học tập cải tạo về, tôi ghé căn nhà ở gần chợ Trương Minh Giảng hai lần để thăm anh, sau đó vài lần tổ chức Tết, Phật Ðản hay Hiệp Kỵ GÐPT Miền Nam ( ngày Vía Ðức Phật A Di Ðà 17-11 Âm lịch ), anh có gửi thư báo cho tôi đi dự ở Già Lam, sau đó không thấy anh phụ trách việc nầy, anh Phan Cảnh Tuân lại đảm trách.

Ngày tôi sắp rời xa thành phố, nhờ anh Ngô mạnh Thu đưa tôi đi thăm anh Lê Cao Phan và anh Hựu, ghé nhà anh ở đường Trương Minh Giảng (Lê Văn Sỹ), người nhà cho biết anh không muốn tiếp ai hết, nhưng bỗng nhiên anh lại ra tiếp chuyện với chúng tôi, anh ít nói, trong các buổi họp chỉ im lặng để ghi ghi, chép chép, nhưng khi đã nói thì nói rất nhiều, hôm đó anh kể lại chuyện năm xưa anh đi học ở Mỹ, anh nói cho biết về nét đặc biệt chỗ tôi sẽ định cư. Sau nầy được tin anh sang Mỹ, tôi mới biết anh ít nói mà lại còn giữ kín nữa.

Tôi không nhớ đã gặp và biết anh Lê Cao Phan từ lúc nào, chắc là sau Ðại Hội 1964 khi anh giữ chức vụ Ủy Viên Văn Nghệ. Anh Phan nước da ngâm đen, tóc luôn luôn hớt cao như lính, anh mang kiến cận màu. Lần đi Huế năm 1965, anh đã chỉ tôi nên tập quan sát, ghi nhớ và phán đoán người khác.

Quảng Hội Lê Cao Phan (1923-2014)

Anh là người có nhiều tài năng, tạc tượng, sáng tác nhạc, vẽ tranh, dịch sách. Bản nhạc Phật Giáo Việt Nam anh sáng tác năm 1951, trong dịp Ðại Hội thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam đã trở thành bài hát chánh thức của Phật Giáo Việt nam.

Anh dịch truyện Kiều ra Anh và Pháp Văn, quyển sách nầy do Unessco in, bác Tôn Thất Liệu khen anh dịch rất tài tình, sử dụng mỹ từ lưu loát. Ngày tôi đến thăm anh để từ giả lên đường ra nước ngoài, anh cho tôi biết, anh sẽ đi Canada, lấy bản nhạc Phật Giáo Việt nam do nhà xuất bản Huyền Trang in năm 1960, anh ký tên tặng tôi, ưu ái ghi thêm mấy dòng chữ : Thân tặng Anh Huỳnh Ái Tông bản nhạc quá xưa cũ để lưu niệm trước ngày rời nước. Tác giả.

Một người nữa, tôi cũng chỉ quen biết từ năm 1964 trở đi, đó là anh Nguyên Y Lương Hoàng Chuẩn, anh Lữ Hồ thường hay gọi là Lương Hoàng Sám. Anh Chuẩn tướng vạm vở, đeo kính cận dầy, anh có để râu mép, hình ảnh dễ nhớ là khi anh cười, sau đôi kính cận trông mắt anh hình như nhắm lại.

Nguyên Y Lương Hoàng Chuẩn (1920-1976)

Năm 1976, trong trại học tập ở rừng Cà Tum tỉnh Tây Ninh, ai đó đi thăm nuôi đã mang theo tờ báo Tin Sáng của nhóm Ngô Công Ðức, Hồ ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, tôi đọc thấy Cáo Phó do ban Hướng Dẫn Trung Ương Gia Ðình Phật Tử Việt nam và Gia Ðình báo tin anh Chuẩn đã mất, tôi nhớ tới anh những lần họp ở Ban Hướng Dẫn Trung Ương, lần đi ÐàLạt năm 1965, trên chuyến phi cơ quân sự DC3, anh đã ngồi hàng ghế ngay trước mặt tôi, lần ấy anh có đưa cô con gái cùng đi, hai cha con nói với nhau về việc học hành của cô ta ở Ðại học. Ðọc tin anh mất, tôi cảm thấy rừng càng vắng vẻ quạnh hiu.

Thỉnh thoảng tôi nghe nhắc tới anh Ðoàn Lộc, nhưng anh ta trước kia là Huynh Trưởng Gia Ðình Chánh Ðạo, không có chi đặc biệt lắm đối với tôi, nhưng anh Lê Lộc thì có, anh Lê Lộc là Ủy viên Doanh Tế, vì anh là Giám đốc nhà xuất bản Minh Ðức ở Ðà Nẳng, anh có nhiều kinh nhiệm về kinh doanh.

Khoảng cuối thập niên 80, gặp anh ở Già Lam, nhân nói chuyện sách báo, kinh kệ, tôi nói là tôi thích bộ Thiền Luận của Suzuki, có đọc qua một lần do người bạn cho mượn, thuở ấy sách rất hiếm mà hiếm nhất là kinh sách Phật giáo, nhưng anh Lộc nói ngay với tôi trước mặt vài người khác : Anh có bộ Thiền Luận, em muốn đọc thì đến nhà anh ở đường Gia Long, anh cho em mượn về nhà đọc. Tôi là người chơi sách, quý sách, mê đọc sách, nghe anh nói vậy tôi cảm kích vô cùng, nhưng tôi không dám làm phiền anh,vì tôi có bệnh nặng Chỉ đọc sách của mình chớ không thích đọc sách của người khác, trừ khi bất khả kháng.

Năm 1962, làm Liên Ðoàn Trưởng Gia Ðình Giác Trí một thời gian ngắn, hình như lúc đó bác Thuỵ Lâm còn làm Gia Trưởng, cho đến năm 1963, bác Nhuận Pháp Tôn Thất Liệu mới làm Gia trưởng, tôi nhớ hình ảnh bác mặc áo sơ mi trắng, quần kaki màu vàng tham gia các cuộc tuyệt thực, họp hành ở Xá Lợi trong pháp nạn 1963, vì lý do đó, năm 1964 bầu Ban Hướng Dẫn GÐPT Miền Vĩnh Nghiêm, chúng tôi ủng hộ bầu bác làm Trưởng Ban, bác có năng lực và tích cực hoạt động.

Nhuận Pháp Nguyễn Phúc Tôn Thất Liệu (---- - 2010)

Dù gặp khó khăn vì thời cuộc, bác vẫn nêu gương một huynh trưởng năng nổ và tích cực, năm 1973 bác đã góp tay vào việc phục hoạt Ban Hướng Dẫn Vĩnh Nghiêm, sau năm 1975, bác cũng âm thầm sinh hoạt, đẩy dần dần bộ máy Vĩnh Nghiêm chạy đều với mọi miền.

Tôi không nhớ rõ, có lẽ năm 1989, bác đã mời tôi đến nhà bác dự một bửa cơm, khách ngồi tròn một bàn, tôi còn nhớ bên trái tôi là chị Cúc, bên phải tôi là anh Nguyên Tín Nguyễn Châu, cả ba chúng tôi ăn chay nên ngồi gần nhau, kế đó là anh Nguyên Phương Hoàng Trọng Cang, kế đó nữa là anh Như Tâm Nguyễn Khắc Từ, kế đó nữa là anh Tâm Lạc Nguyễn Văn Thục kế đó nữa là gia chủ, còn hai người nữa tôi đã quên nhưng không phải là anh Cường, anh Cầm hay anh Hựu, bửa ăn đó không khí vui vẻ, thoải mái.

Năm 1989, đi dự Hiệp kỵ ở ÐàLạt, lại bạn của bác Liệu, anh Võ Văn Toàn đã mời phái đoàn Vĩnh Nghiêm 17 Huynh Trưởng cùng với anh Châu, anh Thạnh, anh Ðể và một vài vị khác nữa tôi không nhớ tên, đã dùng bửa cơm thân mật tại nhà anh, gia chủ tốn thêm một chai rượu mạnh, tôi lại phải làm khách ngủ nhà anh Toàn một đêm, sau nầy mới biết bác Liệu một lần có ơn trọng đã cứu giúp anh Toàn. Ra nước ngoài, tôi chỉ gửi thư cho anh Toàn một lá, quả là người vô tình đáng trách.

Những Trưởng Ðại Diện Miền như anh Chí Pháp Nguyễn Thanh Quang, Minh Từ Mã Thành Cưng, Nguyên Ngộ Nguyễn Sĩ Thiều, Tâm Liên Trần Ngọc Giao, tôi chỉ biết mặt hơn là thân giao, riêng anh Mã thành Cưng sau nầy tôi có gặp nhiều lần ở chùa Long Thiền của Hoà Thượng Huệ Thành, Phó Pháp chủ Giáo Hội Phật Giáo Việt nam, lúc đó anh là Thư Ký Giáo Hội Tỉnh Ðồng Nai, anh vẫn điếc lác, vẫn mang máy như ngày xưa vậy.


Một buổi sáng khoảng năm 1980, tôi đi phố Lê Lợi gặp anh Văn Ðình Hy, lúc đó anh làm ở Sở Giáo dục thành phố, tôi chào và hỏi anh có được khoẻ mạnh không, đưa cùi chỏ tay phải, phía tôi đi bên cạnh, anh nói : - Anh bị thấp khớp nặng, em thấy khớp sưng lên không ? Ðêm nhức không ngủ được, nó còn có biến chứng sang tim. Nghe anh nói, tôi nhìn kỷ thấy cùi chỏ anh bị sưng lên và đỏ bầm, vài năm sau, tôi nghe anh đã qua đời.

Tâm Huyền Văn Đình Hy (1924-1989)

Anh Hy trước kia làm Giám Học Trường Quốc Học, từng làm Trưởng ban Hướng Dẫn Gia Ðình Phật Tử Trung Phần, sau anh đổi về Bộ Giáo Dục, vợ anh chị Tống Tịnh Nhơn đổi về Trường Gia Long. Ở đất mới nầy anh Hy đã gặp cảnh trái ngang, tôi không rõ những ngày cuối đời anh Hy có được thanh thản không ? Vì tôi biết anh rất ít.

Cũng nên nhắc đến một người nữa là Thiện Quang Ðỗ Văn Giu, xưa kia là Gia Trưởng Gia Ðình Phật Tử Chánh Ðạo, pháp nạn 63, một bác người mập mạp có râu tài dưới càm bên phải, chạy xe Lambretta trắng làm Gia Trưởng Chánh Ðạo, khi ấy bác Giu làm Phó Trưởng Ban Hướng Dẫn Gia Ðình Phật Tử Nam Việt. Năm 1964, bác làm Trưởng Phái Ðoàn Huynh Trưởng Thủ Ðô ra thăm Huế, trú ngụ tại chùa Linh Quang.

 Thiện Quang Đỗ Văn Giu (19-- - 19--)

Một buổi sáng sớm, bác đánh thức mọi người :  - Dậy đi! Dậy đi! Anh em dậy đi ! Ăn khoai lang nè. Tôi ngồi bật dậy, nhìn thấy trên bàn uống nước, bác mở chiếc khăn tay ra, mấy củ khoai lang nấu bốc khói như vừa mới vớt từ trong nồi. Có anh em nào đó hỏi :  - Bộ bác đi ngủ đò sao về sớm, lại có khoai lang nữa bác ?. Bác Giu trả lời tự nhiên :  - Ừ ! Ðêm hôm đi ngủ đò, sáng dậy sớm, bà chủ gói cho mấy củ khoai, gửi về cho các chú đó !

Nhà bác Giu trong hẻm Vạn Quốc Tự, xế cổng Cư Xá Ðô Thành, cũng gần hẻm nhà anh Chuẩn, cũng không xa nhà tôi chi mấy, đi bộ mất chừng 5 phút. Sau năm 1975, tôi có tới thăm bác một lần, bác vẫn khoẻ mạnh, vui mầng gặp lại tôi. Sau đó nghe bác đã mất, tôi bùi ngùi nhớ tới bác, nhớ tới hình ảnh mấy củ khoai lang trong chiếc khăn tay, bốc khói vào buổi sáng sớm, tiết trời lạnh lẻo ở đất thần kinh.

 Một ngày cuối năm Mậu Dần (30-1-1999) - Hiệu đính 10-10-2019

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét